Nội dung
Khái niệm
Chứng Hàn thấp là tên gọi tóm tắt cho những chứng trạng do tà khí từ ngoài xâm phạm hoặc thể trạng vốn Tỳ dương không mạnh dẫn đến thủy thấp ứ đọng ở trong gây nên. Nguyên nhân phần nhiều do cảm nhiễm sương móc nước mưa, hoặc nằm ngồi nơi ẩm ướt, ăn thức sống lạnh mà thành bệnh. Trên lâm sàng, vì bộ vị cảm nhiễm hàn thấp và mức độ bệnh có nặng nhẹ khác nhau nên chứng trạng cũng thiên về biểu thiên về lý
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đầu mình nặng nề các khớp xương đau co duỗi khó, không mồ hôi, mỏi mệt sợ lạnh hoặc mặt và thân mình phù thũng từ lưng trở xuống nặng hơn, đau vùng vị quản, đại tiện phần nhiều lỏng nhão hoặc đới hạ nhờn trắng nhiều hơn màu đỏ, tiểu tiện không lợi, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Nhu Nhược.
Chứng Hàn thấp thường gặp trong các bệnh Vị quản thống, Hoắc loạn, Tiết tả, Lỵ tật, Tý chứng.
Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng “Thấp trở” và “chứng Tỳ hư thấp khốn”.
Phân tích
Chứng Hàn thấp có thể xuất hiện trong nhiều loại tật bệnh, biểu hiện lâm sàng có đặc điểm riêng, phương pháp điều trị cũng không hoàn toàn giống nhau.
– Trong bệnh Vị quản thống xuất hiện chứng Hàn thấp, biểu hiện chứng trạng Vị quản đầy đau khó chịu, ăn không thấy ngon, miệng dính nhớt, đầu mình nặng nề, đại tiện lỏng nhão hoặc tiết tả, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu, nguyên nhân phần nhiều do ăn quá nhiều đồ sống lạnh, trung dương bị dồn ép, Tỳ không vận hóa được gây nên; điều trị nên kiện Tỳ hóa thấp, cho uống bài Vị linh thang (Đan Khê tâm pháp) gia giảm.
– Chứng Hàn thấp xuất hiện trong bệnh Tiết tả, thường có chứng trạng ỉa chảy nước trong loãng thậm chí như dội nước, sôi bụng, đau vùng bụng đầy, kém ăn hoặc có kiêm chứng biểu hàn; đây là do ngoại cảm hàn thấp xâm phạm Vị Trường hoặc ăn đồ sống lạnh quá độ, Tỳ mất sự kiện vận, hàn thấp thịnh ở trong, mất chức năng truyền đạo gây nên; điều trị theo phép giải biểu tán hàn, phương hương hóa trọc, cho uống bài Hoắc hương chính khí tán (Thái bình huệ dân hòa tễ cục phương).
– Trong bệnh Hoắc loạn xuất hiện chứng Hàn thấp, thường có chứng trạng thượng thổ hạ tả đột ngột, thoạt tiên đi tả ra phân loãng, tiếp theo tả hạ toàn nước trong hoặc đục như nước gạo, vùng hung cách đầy và đau, bụng đau hoặc không đau, tứ chi mát lạnh, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu Nhược v.v. đây là do nhiễm phải khí hàn thấp uế trọc, úng trệ ở trung tiêu, dương khí bị dồn nén làm cho sự thăng giáng bị đảo ngược, trong đục lẫn lộn gây nên; điều trị theo phép tán hàn táo thấp, phương hương hóa trọc, cho uống Hoắc hương chính khí tán (Thái bình huệ dân hòa tễ cục phương) hợp với bài Thuần dương chính khí hoàn (Bắc kinh thị Trung dược thành phương tuyển tập) gia giảm.
– Trong bệnh Lỵ tật xuất hiện chứng Hàn thấp, đặc điểm lâm sàng là đi lỵ ra nhiều nhầy sắc trắng hoặc trắng nhiều đỏ ít, đau bụng, lý cấp hậu trong, ngực bụng đầy tức không thiết ăn uống, đầu nặng, thân mình bứt dứt; bệnh này còn gọi là Hàn thấp lỵ, do ăn uống thức không sạch hoặc ăn sống lạnh bừa bãi làm tổn thương Tỳ dương, thủy thấp ứ đọng ở trong, thấp theo hàn hóa, hàn và thấp chất chứa ở trong làm nghẽn trỏ khí cơ, khí hàn thấp uế trọc câu kết ở Trường Vị gây nên; điều trị theo phép ôn hóa hàn thấp, hành khí chỉ lỵ, dùng bài Vị linh thang (Đan Khê tâm pháp) gia vị.
– Nếu trong Tý chứng xuất hiện chứng Hàn thấp, đặc điểm lâm sàng là vùng lưng hoặc các khớp xương chân tay thân mình lạnh đau nặng nề co duỗi hạn chế, xoay chuyển khó khăn, bệnh ngày càng nặng kéo dài không khỏi, gặp thời tiết lạnh hoặc trời mưa dầm bệnh càng kịch liệt; Đây là do làm nghề sông nước, lội nước dầm mưa, tà khí hàn thấp xâm phạm cơ bắp gân mạch xương khớp, nghẽn tắc kinh lạc, điều trị dùng bài Ý dĩ nhân thang (Loại chứng trị tài) gia giảm.
Chứng Hàn thấp phần nhiều phát sinh ở người cao tuổi, bởi vì người cao tuổi dương khí Tỳ Thận đa số đều hư, khí không hóa thủy cho nên dễ mắc chứng Hàn thấp; chứng trạng thường gặp là tinh thần ủy mị, sắc mặt kém tươi, cơ thể lạnh chân tay lạnh, nặng nề yếu sức, thậm chí chi dưới phù thũng, bụng đầy đại tiện nhão, ỉa chảy, rêu lưỡi trắng nhớt, ở phụ nữ cũng bị chứng Hàn thấp, biểu hiện chủ yếu là đới hạ ra trong loãng, thống kinh, tử cung nhiễm lạnh không thụ thai v.v. Cần phải biện chứng điều trị cho rõ ràng.
Hàn với Thấp đều là âm tà; tính của hàn ngưng trệ dễ thương tổn dương khí. Thấp tà nặng đục, dễ chèn ép khí cơ. Cả hai đều chèn ép khí làm cho huyết ngưng tụ, xuất hiện các chứng hầu khí trệ huyết ứ. Chứng Hàn thấp có kiêm cả chứng hậu khí trệ huyết ứ, thường bộc lộ tình trạng dương khí bị tổn thương quá nặng, không dùng loại thuốc hóa khí thì không khu hàn thắng thấp được.
Chẩn đoán phân biệt
– Chứng Thấp trở với chứng Hàn thấp, cả hai đều thuộc phạm vi bệnh Thấp. Xét theo nguyên nhân bệnh, chứng Hàn thấp đa số do làm việc nơi sông nước, cảm nhiễm lội nước dầm mưa, nằm ngồi nơi ẩm ướt khiến cho hàn thấp xâm phạm vào trong, hoặc do ăn uống không điều độ, ăn nhiều thức sống lạnh làm tổn thương Tỳ Vị, thấp theo hàn hóa gây nên. Còn chứng Thấp trở phần nhiều do ăn nhiều thức sống lạnh ngọt béo gây nên, còn do phong thấp sương móc gây bệnh rất ít. Xét theo chứng trạng, chứng Hàn thấp, có nghiêng về biểu, nghiêng về lý khác nhau. Nghiêng về biểu phần nhiều có các chứng trạng đầu nặng mình đau, khớp xương co duỗi khó, tứ chi phù thũng. Nghiêng về lý phần nhiều có chứng đau Vị quản, đại tiện lỏng loãng hoặc hạ lỵ ra sắc nhờn trắng nhiều hơn sắc đỏ.
Chứng Thấp trở thì do bộ vị thấp trở khác nhau nên Thấp trở có chia ra Tam tiêu. Thấp trở ở Thượng tiêu thì đầu trướng bụng khó chịu, không đói cũng không muốn ăn. Thấp trở ở Trung tiêu thì bụng trướng đầy, chân tay nặng nề. Thấp trở ở Hạ tiêu thì ống chân phù thũng, tiểu tiện không lợi. Có thể thấy chứng Hàn thấp vừa có thấp vừa có hàn tà; Còn chứng Thấp trở chỉ có hiện tượng thấp tà ngăn trở chứ không có hàn tà.
– Chứng Tỳ hư thấp khốn với chứng Hàn thấp: Chứng Tỳ hư thấp khốn với chứng Hàn thấp đều có liên quan tới Tỳ hư thấp trọc không vận hóa. về nguyên nhân bệnh đều do tham ăn uống đồ mát hoặc lội nước dầm mưa gây nên. Về chứng trạng đều là chân tay phù thũng, đại tiện lỏng loãng, đầu mình nặng nề, rêu lưỡi trắng nhợt v.v. Nhưng bộ vị của chứng Tỳ hư thấp khốn chỉ hạn chế ở Tỳ Vị mà chứng Hàn thấp thì ngoài những quan hệ mật thiết với Tỳ Vị còn liên quan tới cơ nhục, xương khớp tứ chi. Vì thế, loại sau phần nhiều có kiêm chứng đau khớp xương co duỗi khó. Đây là điểm phân biệt giữa hai chứng.
Trích dẫn y văn
– Thương thấp lại kiêm hàn tà, gọi là Hàn thấp. Bới vì đầu tiên bị nhiễm thấp khí, sau đó lại tổn thương sống lạnh, có chứng trạng đầu ra mồ hôi và đau mình, toàn thân co cứng khó xoay chuyển, sờ mó vào càng đau nhiều; toàn thân không ra mồ hôi, tiểu tiện không lợi; chứng trạng giống với phong thấp, nhưng đại tiện chuyển ra đi lỏng mà thôi, bài Thấm thấp thang chủ chữa bệnh ấy (Thấp chứng – Chứng trị vậng bổ).
– Chứng hàn thấp đau lưng, nhức đầu đau minh, không mồ hôi, lưng đau cứng không xoay chuyển được. Đây là chứng Hàn thấp yêu thống. Nguyên nhân của chứng này hoặc gặp năm thời tiết hàn thấp, âm hàn chiếm lĩnh, người dân bị chứng đau lưng thân mình nặng nể. Đây là do tuế khí gây bệnh; hoặc xông pha mưa lạnh, âm hàn mưa ẩm nhiễm vào làm cho đau, đó là tự con người cảm mạo mà thành bệnh (Hàn thấp yêu thống – Chứng nhân mạch trị).
– Chứng hàn thấp mình mẩy phù thũng, mình nặng mà đau, ống chân lạnh, ngực đầy khó chịu, khắp mình thũng. Đây là chứng Hàn thấp thũng. Nguyên nhân gây nên chứng này, hoặc là thời lệnh mưa dầm, tiết trời lạnh, hoặc ở nơi ẩm ướt, khí âm hàn xâm phạm vào cơ biểu; Hoặc dương có mồ hôi lại dội nước,bị tổn thương nhiễm nước lạnh, hình thành chứng Hàn thấp thũng (Chứng nhân mạch trị – Hàn thấp thân thũng).