Đặc điểm cấu tạo cơ thể đỉa
Đỉa  (Hirudinea) thuộc lớp ngành giun đốt, có nhiều loài khác nhau, có loài  sống ở cạn, có loài sống ở nước ngọt. Đỉa ưa sống tự do hoặc sống ký  sinh tạm thời ở các động vật khác, nhờ vào máu của các vật chủ. Cơ thể  đỉa dẹt theo chiều lưng bụng và có tới 33 đốt, mỗi đốt lại được chia  thành nhiều ngấn đốt phía bên ngoài gọi là vành. Đặc biệt nó có 2 giác  dùng để bám chặt vào cơ thể vật chủ: giác trước (ở giữa có miệng) và  giác sau (ngay trên giác sau có hậu môn).
Con đỉa sẽ là nguồn dược liệu.
Đỉa  không có xoang cơ thể, giữa ruột và thành cơ thể chứa đầy nhu mô, chỉ  để lại những xoang nhỏ làm nhiệm vụ tuần hoàn, gọi là xoang huyết. Ống  tiêu hóa bắt đầu bằng miệng, tiếp sau là hầu. Ở hầu có tuyến đơn bào  tiết ra chất kháng đông máu, nên máu được đỉa hút vào không đông, máu ở  vết cắn của đỉa cũng rất lâu đông. Ruột đỉa có các manh tràng bên làm  tăng diện tiêu hóa của ruột. Máu ở trong ruột đỉa được tiêu rất chậm.
Đỉa  là động vật lưỡng tính, trứng phát triển trong kén do đai sinh dục tiết  ra. Cấu tạo của cơ quan sinh dục ở đỉa tương tự như ở lớp giun ít-tơ,  nhưng phát triển rất chậm, phải tới vài năm mới đạt tới giai đoạn trưởng  thành. Nó có thể sống lâu tới 20 năm.
Đỉa  bơi rất khỏe, khi bám vào da của người, hay của động vật, gờ cơ ở  khoang miệng sẽ hoạt động như lưỡi cưa và gây nên một vết thương hình  hoa thị. Hầu có thành cơ khỏe nên hút rất mạnh tạo ra một khoảng chân  không, nhờ đó mà đỉa bám rất chắc vào vết thương, kéo ra rất khó. Lớp tế  bào biểu bì của đỉa luôn luôn tiết ra một chất dịch nhờn làm cho mặt da  đỉa luôn luôn trơn bóng. Nhờ đặc tính này, mà các động vật sống trong  nước rất khó bắt được đỉa.
Con đỉa trong lịch sử y học
Lịch  sử chữa bệnh bằng đỉa bắt nguồn từ thời cổ đại. Các hình vẽ trên Kim tự  tháp Ai Cập cho thấy phương thuốc tự nhiên này đã được biết đến từ thế  kỷ 15 trước Công nguyên. Một bức họa cổ để lại cũng cho hay Hoàng đế La  Mã, Galerius đã được chữa bệnh bằng đỉa… Nhưng phải đến đầu thế kỷ 19  (sau Công nguyên) “đỉa liệu pháp” mới là thời thịnh vượng. Vào thời đó  nước Pháp sử dụng 20-30 triệu con đỉa trong một năm, nước Anh dùng 7-9  triệu con, nước Nga cũng dùng nhiều. Lúc bấy giờ các bệnh viện, các nhà  thuốc đều đặt một lọ sứ bày đỉa trên quầy. Một phần lớn đỉa được xuất  khẩu đem lại nguồn lợi không nhỏ. Các thầy thuốc thời đó tin rằng đỉa  hút hết máu xấu trong cơ thể, để lại máu tốt, nên nhiều khi người bệnh  được cho dùng nhiều đỉa hút một lượng máu khá lớn để trị bệnh nhức đầu,  béo phì, tăng huyết áp… Thậm chí, những cô gái Nga chuộng mốt, khi  chuẩn bị đi khiêu vũ cũng đặt vào tai mình 2 con đỉa, khi đỉa vừa cắn  vào làn da mềm mại tươi trẻ, mắt cô gái ánh lên niềm vui, đôi má ửng  hồng, các nếp nhăn biến mất và nỗi u sầu cũng tan biến.
Trào  lưu dùng đỉa vào trị liệu mạnh đến nỗi cạn kiệt nguồn nguyên liệu này.  Do vậy ở Nga đã xuất hiện những cơ sở nhân giống và nuôi đỉa. Nhưng vào  nửa sau của thế kỷ 19, người ta dần dần không còn quan tâm đến đỉa nữa.  Khi đó đã xuất hiện những phương tiện đơn giản trong sử dụng hơn như các  lọ thủy tinh hút máu, sau đó là aspirin, nitroglycerin và các dược chất  khác.
Tại  nước Anh, cho đến năm 1910, “đỉa liệu pháp” thực sự đi vào quên lãng,  thỉnh thoảng mới bắt gặp ở một số vùng hẻo lánh xa xôi như một giải pháp  y học dân gian.
Và khả năng phục hồi:
Ngày  nay, phương pháp y học cổ xưa dùng đỉa chữa bệnh đang được nghiên cứu  phục hồi và nâng cao. Ngày càng nhiều các nhà y học quan tâm tới phương  thuốc cổ đã được kiểm chứng nhiều thế kỷ trong thực tiễn chữa bệnh.
Vào  những năm cuối thế kỷ 20, tại nước Anh, bác sĩ Roy Sawyer đã thành lập  một nông trang nuôi đỉa ở Hendy, gần Swansea, với lượng cung cấp 80.000  con đỉa/năm cho toàn nước Anh; đặc biệt có tới 30.000 con được dùng vào  phẫu thuật – thẩm mỹ. Các hóa chất trong cơ thể đỉa cho nó khả năng khôi  phục dòng tuần hoàn máu ở các mô ghép, và giúp các ngón tay (hay ngón  chân) người bị đứt được lành lại sau khi nối. Việc khâu động mạch cho  các ngón tay bị đứt dưới kính hiển vi không mấy khó khăn. Nhưng khâu các  tĩnh mạch thành mỏng với đường kính dưới 1mm thì quả là thách thức. Nếu  công việc thất bại, máu không trở về tuần hoàn cũ dẫn đến tắc nghẽn,  ngón tay dần dần hoại tử do thiếu ôxy và chất dinh dưỡng nuôi mô. Khi  đưa đỉa vào ngón tay được ghép, nó sẽ hút máu đến no. Nhờ chất chống  đông máu trong nước bọt đỉa, vết thương tiếp tục chảy máu, đưa máu vào  nuôi ngón tay từ các động mạch được nối lại trước đó. Dòng chảy của máu  tạo một đường tuần hoàn mới nuôi dưỡng mô cho đến khi cơ thể tự tái lập  đường tuần hoàn cũ sau 3-5 ngày.
Cùng  thời gian này, ở Nga cũng có nhiều nghiên cứu khôi phục “liệu pháp  đỉa”. Theo ý kiến của tiến sĩ sinh học Genadi Nhikonov, Giám đốc Viện  Sinh học Matxcơva, thì con đỉa có nhiều ưu điểm trong y học. Thứ nhất,  nó luôn cắn vào vùng nhạy cảm và như vậy kích thích các vùng này hoạt  động khi bị chảy máu. Thứ hai, điều chỉnh dòng máu chảy. Thứ ba, nước  bọt của đỉa khi đi vào cơ thể người sẽ mang theo nhiều chất có hoạt tính  sinh học cao mà nhờ đó làm tan biến các chất nghẽn mạch, huyết áp, mạch  trở nên bình thường, các ổ viêm nhiễm bị loại trừ. Thêm vào đó, con đỉa  không gây một phản ứng phụ nào như các thuốc thời hiện đại thường gây  ra. Nhikonov đã khởi xướng thành lập một trung tâm áp dụng “liệu pháp  đỉa”, ở đó người ta chữa trị các căn bệnh thế kỷ như nghẽn mạch, giãn  tĩnh mạch, tăng huyết áp…, các bệnh về da và mắt. Người ta nhận thấy  rằng người bệnh mất dần sự bất ổn, hồi phục được giấc ngủ và nâng cao  hoạt động
sáng tạo. Viện Sinh học Matxcơva tiến hành nhân giống đỉa đã nhiều thập niên qua. Hằng năm, viện này cung cấp cho các bệnh viện của Nga và ở nước ngoài hơn 1,5 triệu con đỉa.
Để  tránh việc truyền bệnh qua đường máu, đỉa được nuôi bằng máu của gia  súc có sừng và sống trong các bồn đặc biệt, bảo đảm an toàn cho người  bệnh. Đỉa tăng trọng dần trong một năm, sau đó người ta có thể bắt đầu  sử dụng chúng. Trước khi đưa đỉa đến các cơ sở điều trị, người ta bỏ đói  nó 2-3 tháng để khi “xung trận”, nó hút máu mạnh mẽ. Và đỉa được tiêu  hủy ngay sau khi dùng và điều trị xong.
Nguồn dược liệu tương lai:
Từ  năm 1884, người ta đã tìm ra trong nước bọt đỉa có chất hirudin chống  đông máu. Hirudin có trong tuyến đơn bào của thực quản đỉa, đó là đa  peptid phân tử lượng 9.000. Hirudin tạo phức vững bền với thrombin, vì  vậy thrombin mất khả năng chuyển fibrinogen thành fibrin làm cho máu  không đông. Bác sĩ R.Sawyer còn cho rằng nước bọt của đỉa tiết ra hỗn  hợp hóa chất như thuốc gây tê (ngăn chặn cảm giác đau ở người bị nó hút  máu, để đỉa không bị gỡ ra), và chất giãn mạch mở rộng mạch máu nơi vết  cắn để đỉa hút được nhiều máu; chất chống đông và chất kháng sinh (giữ  cho máu khỏi hỏng trong ruột đỉa suốt thời kỳ tiêu hóa có thể lên đến 6  tháng).
Ngoài  hirudin đã biết, các nhà khoa học còn tách được 10 chất khác có tiềm  lực như dược phẩm. Thí dụ hemetin có khả năng ngăn nhồi máu cơ tim bằng  cách làm tan các cục máu đông trong động mạch vành. Hoặc enzym  hyaluronidase tiêu hóa lớp kết dính giữa các tế bào, được dùng để tăng  tốc độ lan rộng của thuốc tiêm và thuốc gây tê…
Hiện  nay, nhiều người đang hy vọng ứng dụng công nghệ gen để khai thác nguồn  dược liệu từ con đỉa, mà nó được ví như “tủ thuốc sống” vào các cơ sở  điều trị.

