Chứng Can phong nội động là nói khái quát về Can dương hoá phong quấy rối lên trên hoặc là Can phong kết hợp với đàm xông lên trên, khí và huyết đều dồn lên trên hoặc âm huyết ở tạng Can quá hư sinh táo sinh phong từ đó mà có những đặc trưng như biến đổi đi mọi nơi liên tục và lay động lẩy bẩy, bao quát cả những chứng trạng thanh khiếu bị bế tắc và chân tay thân mình có những trạng thái không bình thường. Nguyên nhân bệnh này có những chứng hậu phức tạp, thường do tuổi cao Thận suy hoặc phòng thất mệt nhọc, thất tình nội thương, ăn uống không điều hoà là những nhân tố tổng hợp gây nên bệnh; Cũng có thể do Ôn bệnh, bệnh tà vào hạ tiêu, âm huyết hao kiệt mà bệnh.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chóng mặt, đau đẩu, tai ù, miệng mắt méo lệch, nặng hơn thì ngã lăn hôn mê không nói được, bất tình nhân sự, hoặc là chân tay tê dại, run rẩy, bại liệt, hoặc là co giật, lưỡi phần nhiều đỏ tía, khô ráo, mạch Huyền Sác hoặc kiêm Hoạt, kiêm Trường; Nếu Âm huyết hư cực sinh phong thì mạch phần nhiều Tế Sác vô lực hoặc Huyền Tế, Hư Nhược.
thường gặp trong các bệnh Huyễn vâng, Đầu thống, Trúng phong, Bại liệt, Quyết chứng, Ôn b.
Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Can dương thượng cang, chứng Nhiệt cực sinh phong, chứng Can vượng khí thực động phong, chứng Phóng trúng kinh mạch, chứng Can nhiệt động phong.
Phân tích
Biểu hiện lâm sàng và phương pháp điểu trị cụ thể chứng Can phong nội động trong các tật bệnh khác nhau đều có đặc điểm riêng.
Chứng này gặp trong các bệnh Huyễn vậng và Đầu thống, đều quen gọi là Can dương hoá phong, phần nhiều do thể chất vốn ám hư dương thịnh, lại gặp mệt nhọc, cáu giận, khí hoả bốc lên mà động phong dương, hoặc do tình chí uất lâu hóa hoả, Can âm quá hao hụt mà hoả bốc lên động phong, chứng trạng biểu hiện chủ yếu là đầu mặt choáng váng như ngồi trên xe thuyền, ừa đau đầu vừa chóng mặt, mắt nheo sợ ánh sáng lại kiêm chứng nóng nẩy, mặt đỏ, trong miệng đắng và khô, hoặc chân tay tê dại cơ bắy động, đi đứng loạng choạng hoặc kém ngủ hay mê; các chứng trạng thường nặng hơn mỗi khi mệt nhọc hoặc cáu giận; c lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác; điều trị nên dục âm tiềm dương, bình Can dẹp phong, cho uống bài Trấn can tức phong thang (Y học dung trung tham tây lục) hoặc Linh dương câu đằng thang (Thông tục Thương hàn luận) bỏ Sinh địa tươi, Xuyên bối mẫu, Tang diệp, Trúc nhự, gia Sinh Thạch quyết, Sinh mẫu, Chân châu mẫu, Dạ giao đằng, Hợp hoan hoa.
Chứng Can phong nội động khi gặp trong bệnh Trúng phong hoặc Quyết lạnh, đó là chứng Can dương hoá phong r nặng, có những tình huống khác nhau như bế chứng, thoát chứng che lấp thanh khiếu ở đỉnh đầu và đi ra tứ chi gây nên bại liệt hoặc co rút riệu chứng và phép chữa cụ thểtham khảo ở bệnh Trúng phong.
Chứng Can phong nội động gặp trong bệnh Bại lit, thường là chứng nhẹ của nội phong loại trúng, người bệnh có chứng trạng tinh thần còn tỉnh táo, chỉ vì kinh mạch và đường kinh ngm – toại đạo – bị phong dương cùng với đàm trọc làm úng nghẽn xuất hiện miệng mắt méo xếch, lưỡi cứng khó nói, chân tay nặng nề,i, bán thân bất toại; chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhớt, mạch Huyền Hoạt Sác; phép chữa phải Tiềm dương dẹp phong, thuận khí giáng ho, đồng thời tiêu đàm tiết nhiệt, thông kinh sơ lạc thường dùng bài Thiên ma câu đằng ẩm (Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa) gia Địa long, Cương Tâm, Toàn yết, Ngô công, Trúc lịch, Xuyên bối, Xích thược, Phòng kỷ, Uy linh tiên…
Chứng Can phong nội động còn có thể gặp trong di chứng bại liệt do nội phong loại trúng; Đây là do kinh toại đã không được lưu thông lại gặp phong dương tuy đã dập tắt tạm thời chứ chưa khỏi hẳn, hoặc là sau khi phong dương đã tắt nhưng lại vi phạm hành động ngu xuẩn nào khác, ngoài tác hại làm cho chân tay vận động trướng ngại, lại thấy thêm cả chứng trạng của phong dương như chóng mặt, đau đầu, gân thịt máy động v.v…phép chữa có thể dùng Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm để bình Can tiềm dương dẹp phong, đồng thời nên nhằm vào đặc điểm của bệnh này là bại liệt thuộc khí hư không lưu thông, đàm trọc ứ trệ ở toại đạo, trọng dụng bài Bổ dương hoàn ngũ thang (Y lâm cải thác) để ích khí trục ứ vạc.
Nếu như sau điều trị, phong dương đã tắt, đờm ứ đã trừ, chân tay đã hoạt động được, chỉ còn lưng đùi yếu mỏi, người loạng choạng không tỉnh táo, trí não kém, đó là chuyển sang chứng tinh tủy rỗng không, phép chữa cũng nên đổi sang bổ ích tinh tuỷ mới có thể thu công hiệu hoàn toàn.
Chứng Can phong nội động khi gặp trong Hạt tiêu Ôn bệnh, gọi là âm huyết hư cực sinh phong, đó là do trải qua hãn hạ, huyết mất âm hao, âm huyết ở hạ tiêu Can Thận khô kiệt, không nhu dưỡng được không khiếu và chân tay gây nên bệnh, cho nên Can mạch mất sự nuôi dưỡng, hư phong nội động, chân tay rung động thậm chí co giật, miệng chảy dãi, trong Tâm sợ sệt nhịp mạnh, đồng thời có cả chứng trạng Can Thận chân âm tổn thương lớn như gầy còm nội nhiệt, lòng bàn tay bàn chân nóng rát, gò má đỏ, miệng khô lưỡi ráo, mồ hôi trộm, tai điếc, nói khó khăn, rìa lưỡi và đầu lưỡi đỏ tía, răng cáu bẩn, nẻ môi, mạch tế Sác hoặc Huyền Tế vô lực. Những chứng trạng ấy khác với Can dương hoá phong. Loại sau tuy có các chứng trạng Phong dương chạy ra tứ chi kinh lạc nhưng lấy phong dương kiêm đàm hoả xông lên đỉnh đầu là biểu hiện nặng hơn, không giống như chứng này lấy chân tay giao động làm chứng trạng đột xuất. Can dương hoá phong chứng trạng dưới hư trên thực hoặc Bản hư Tiêu thực, hơn nữa Tiêu gấp hơn Bản, phép trị phải coi trọng trị Tiêu trước, sau mới chiếu cố đến Bản; Chứng Can phong nội động thì là tà nhẹ mà chính yếu, lấy hư làm chủ yếu, phép trị trước sau lấy phù chính làm trọng tâm sẵn sàng dùng ngay thuốc dưỡng huyết định phong, tráng thủy tư âm, dùng các phương thuốc đại biểu như Tam giáp phục mạch thang (Ôn bệnh điều biện), Đại Tiểu định phong châu (Ôn bệnh điều biện) v.v…
Vì chứng này phần nhiều từ Can khí hoá hoảsinh phong, lại đa số làới đàm hoả xông lên, cho nên thường xen lẫn với Can vượng lấn Tỳ phạm Vị, xen lẫn với Trung tiêu hư hàn, xen lẫn với phản vũ Phế ki xen lẫn với Đàm hoá Hoả. Ớ tình huống lấn Tỳ phạm Vị và khí trệ, bụng sườn trướng đau, ợ hơi nôn oẹ, ngoài phép dùng thuốc bình dẹp phong, có thể linh hoạt gia các vị thuốc sơ lợi hoà giáng, như Bạch tật lê, sinh Mạch nha, Bán hạ, Cam tùng, Hương duyên… Ớ tình huống Trung tiêu hư hàn ăn uống kém sút, ăn không thấy ngo bụng trướng đại tiện nhão, có thể gia thêm các vị thuốc bồi thổ, phù Tỳ kiện Vị, như Đảng sâm, Bạch truật, Sơn dược, Liên nhục, Cam tùng, Can khương, Xuyên bối (sao vàng), Trần bì.
Ở tình huống phản vũ Phế kim, Can khí xông lên Phế, thường có kiêm chứng đau sườn, khí xông lên mà suyễn, có thể linh hoạt thêm các thuốc túc Phế ức Can như Ngô thù sao với Tang chi, Hạnh nhân, Tô ngạnh, Quất hồng, Tô tử v.v…
Ở tình huống kiêm chứng đàm hoả, có quan h nhất định tới người béo mập; Người mập thì hình thể thịnh mà khí suy, nhiều thấp nhiều trệ, khí đạo không lợi, đàm khí dễ úng trệ, đối với bệnh thế phong dương, có cái ảnh hưởng sóng xô dồn dập, khi điều trị có thể dùng thêm thuốc điều khí quét đàm, như Nhị trần, Hậu phác, Chỉ xác, Toàn phúc, Lai bặc tử, Tô tử. ở người gầy thì nhiều táo lắm nhiệt, rất dễ vì nhiệt mà sinh phong, nếu như lại nghiện thuốc nghiện rượu, tụ thấp sinh đàm, đàm hoả đều thịnh, tất nhiên là khái thấu nhiều đàm, bĩ đầy, ợhơi buồn nôn, chóng mặt, hồi hộp phiền muộn; một khi phong dương khuấy động lung tung, đa số là có kiêm đàm hoả xông lên ngăn trở thanh khiếu, nên gia các thuốc quét đàm khai khiếu như Đởm tinh, Thiên trúc hoàng, Trúc lịch, Vin trí, Xương bồ, Uất kim. Nhất là trước khi phong động, càng phải chú ý thanh khí hoá đàm, có thể dùng bài Thanh khí hoá đàm hoàn (Y phương khảo) hoặc Thanh hoả hoá đàm hoàn (Cổ kim y giám) gia giảm.>Lại như chứng Can phong nội động nếu lại do cảm mạo phong hàn, từ ngoại tà dẫn động nội phong thường có kiêm Biểu chứng nóng rét, đau đầu, nhức xương; Đã có Biểu chứng, có thê linh hoạt gia các vị thuốc sơ phong như Kinh giới, Phòng phong, Bạch Chỉ, Thuyền y, Cương Tâm, Tâm sa, Thiên ma, Tần giao… cũng dùng chung với thuốc dẹp yên nội phong.
Chẩn đoán phân biệt
Chứng Can dương thượng cang với chứng Can phong nội động, cả hai tuy đều có chứng hậu của tạng Can như âm không chế dương, âm hư dương cang gây nên bệnh; Nhưng giữa ranh giới hoá phong hay chưa hoá phong, động phong hay chưa động phong, về bệnh cơ tồn tại khác nhau rất xiểu hiện lâm sàng. Nói theo bệnh cơ, chứng Can phong nội động so với chứng Can dương thượng cang, đa số là phát triển ác hoá, phát sinh biến chất: Vốn là tình huống thủy không hàm mộc mà làm cho mộc vượng, đã phát triển đến Thận khuy càng nặng; Dương cang hoá hoả hoá phong; Vốn thuộc ăn uống không điều độ, sinh đờm sinh nhiệt, đã phát triển đến tình trạng nhiệt cực hoá hoả, phong từ hoả mà ra; Vốn là từ nội thương thất tình, đã phát triển đến ngũ chí hoá hoả, hoộng Can phong… Những chất biến về bệnh cơ như thế, tất nhiên sẽ dẫn đến biến hoá trên lâm sàng:
Chứng Can dương thượng cang chỉ có những chứng trạng dương cang do dương khí trôi nổi khuấy động ở phần trên như đau đầu, chóng mặt, mặt đỏ, mắt hoa, tai ù, miệng lưỡi
Chứng Can dương hoá phong thì có những chứng trạng mắt nhìn quay đảo, chập chờn lay động không nhất định, chân tay tê dại gân thịt máy động hồi hộp không ngủ được, nôn mửa không ăn được, động làm là vã mồ hôi, đứng dậy chỉ chực ngã v… Nội phong loại trúng có nhhứng trạng miệng mắt méo xệch, lắc đầu thè lưỡi, lưỡi cứng không nói được, hôn mê không biết gì, đó là các chứng trạng do Can phong phạm tới đỉnh đầu; và chân tay nặng nề, hoặc co quắp, bán thân bất toại là những chứng trạng Can phong chạy ra tứ chi. Đồng thời, bản thân lưỡi hoặc là tê, hoặc cứng, hoặc rụt ngắn, mạch tượng không phải là Huyền Tế hoặc Huyền Sác của chứng Dương cang, mà làuyền Trường hữu lực. Nếu có chứng trạng điển hình Bế chứng hoặc Thoát chứng thì phân biệt với chứng Can dương thượng cang càng rõ ràng hơn.
Chứng Nhiệt cực sinh phong với chứng Can phong nội động: Chứng Nhiệt cực sinh phong so sánh với chứng Can phong bệnh từ trong phát ra, thì động phong tuy giống nhau, nhưng bệnh có khác nhau, biểu hiện cũng khác nhau.
Một là nói theo nguyên nhân bệnh và cơ chế bệnh, chứng Nhiệt cực sinh phong là do cảm nhiễm Ôn tà ở phía trên, bệnh từ mũi miệng mà vào, những biểu hiện lâm sàng của động phong đều là do tà khí ôn nhiệt thử và hoả từ biểu vào lý, khêu gợi tướng hoả, hoả động thì phong sinh, phong và hoả cùng khuấy động mà thành bệnh. Ví dụ như Mộc với Hoả cùng biến hoá, gn mạch mất sự nuôi dưỡng thì tay chân co giật; Bên ngoài xuyên suốt tới kinh lạc thì phát bệnh Kính; Bên trong chèn ép Đản trung thì phát bệnh Quyết; Nghịch truyền Tâm bào sẽ phát sinh… Những biểu hiện xúc động Can phong như thế, đều là nguyên nhân bệnh tà nhiệt truyền vào lý; Một khi thanh được tà nhiệt thì Can phong sẽ dập tắt, loại n với chứng Can phong nội động bệnh phát từ bên trong, khác nhau rất xa.
Hai là nói theo biểu hiện lâm sàng, chứng Nhiệt cực sinh phong phải có những chứng trạng thuộc về ngoại cảm theo mùa, cùng tồn tại với chứng trạng động phong, có thể dựa vào đấ chẩn đoán phân biệt. Ví dụ như thử nhiệt hun đốt, Phế khí bất túc gây nên suyễn thở, thời chứng suyễn này tấ tựra mồ hôi mà không có tiếng đờm khò khè, khác nhau rất xa với chứng Can phong nội động phần nhiều có kiêm đờm trọc vít lấp thanh khiếu nên đờm đưa lên tiếng khò khè. Thử bệnh mà động phong phải kèm theo chứng sốt cao, còn có thêm hiện tượng về thấp như chứng mật cáu bẩn và răng khô, đại tiện hoặc bí hoặc nhão mà khó đi; loại này cũng khác với loại phong dương nội động sinh táo sinh phong. Sốt cao kính quyết hẳn phải thấy chứng trạng thực nhiệt nhốt cao, tinh thần hôn mê, mắt nhìn xéo, gáy cứng, thân thể co cứng, uốn ván, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch Huyền Sác. Đây là Ôn bệnh nhiệt truyền vào Hạ tiêu, hiện tượng tà khí nhẹ, chính khí hư dâm huyết hư nặng, nội động Can phong, Âm huyết ở Can Thận hao thương nên có các chứng trạng thuộc loại hư phong như chân tay tê, bắp thịt máy động, gò má đỏ, nẻ môi, nóng từng cơn mồ hôi trộm, miệng răng khô loét, lưỡi tía và khô, mạch Tế Sác hoặc Tế Huyền vô lực, cũng là những điểm không giống nhau.
Can vượng khí thực động phong với chứng Can phong nội động: Trong chứng Quyết, trừ các chứng Đại quyết, Bạc quyết, Bạo quyết thuộc nội phong loại trúng như nói trong sách Nội Kinh, bản thân là chứng Can phong nội động không nằm trong chẩn đoán phân biệt, còn chứng Quyết khác có ch khác nhau rất xa với chứng Can phong nội động, không nên xếp vào lại cần chẩn đoán phân biệt; Chỉ có một bệnh Khí quyết, mỗi khi do Can vượng khí ốc lên dẫn đến huyết nghịch, khi phát bệnh đều có đặc trưng bệnh chạy khắp nơi và hình thái, động tác chân tay thất thường thuộc Phong gây nên, rất ễ bị lẫn lộn với chứng Can phong nội động thuộc Loại trúng. Yếu điểm chẩn đoán phân biệt ở chỗ Khí uyết thuộc loại khí huyết nghịch loạn, âm dương không thuận tiếp khác với khí huyết đàm hoả cùng dồn lên trên thuộc Loại trúng. Biểu hiện lâm sàng trước tiên có cảm giác Hung Cách khó chịu, thở thô và gấp gần như nghẹt thở, tiếp đến cấm khẩu không nói được, chân tay vận động không bình thường hoặc sờ soạng vu vơ hoặc tay nắm chặt, hoặc co giật, hoặc cứng đơ, hoặc bại liệt, nặng hơn thì thần thức mê man đột ngột, bất tỉnh nhân sự. Nhưng mê man của chứng này có đợt mê man, có đợt tỉnh táo, khác với Loại trúng. Ngoài ra, khi hôn quyết, mặt thường xanh bủng, đầu ngón tay chân mát lạnh, không có đờm sùng sục, không có tiếng khò khè; Loại trúng thì mặt đỏ mình ấm, đờm rãi nhiều, khò khè thở thô. Chứng Khí quyết do Can vượng khí thực động phong rêu lưỡi phần nhiều trắng mỏng, mạch phần nhiều Trầm Phục, khi Quyết lui thì tinh thần tỉnh táo,mạch chuyển ra Trầm Huyền. Chứng Loại trúng rêu lưỡi phần nhiều vàng nhớt, mạch phần nhiều Huyền Trường, Hoạt Đại
Chứng Phong trúng Kinh mạch với chứng Can phong nôi đông: Ngoại phong trúng vào Kinh lạc hoặc Huyết mạch rất dễ lẫn lộn với chứng Can phong nội động da thịt tê dại, miệng mắt méo lệch, nói năng khó khăn, bán thân bất toại; Nhưng có thể chẩn đoán phân biệt theo mấy phương diện sau đây:
1) Trước khi phát bệnh, về thể chất cơ bản khác nhau: Ngoại phong dễ xâm phạm vào người có thể chất vốn khí hư và Vị hư. Nội phong dễ phát sinh ở người có thể chất Can Thận âm hư và thủy suy dương cang.
2) Về bệnh cơ khác nhau: Ngoại phong là phong tà kiêm đàm thấp, hàn thấp hoặc huyết tý làm nghẽn trở Kinh lạc, hoặc vì phong tà lưởng vưởng ở trong huyết mạch, ví dụ như bị trúng ngoại phong mà miệng mắt méo xếch, đó là do miệng và mắt trúng tà một bên do hai Kinh mạch Thủ Túc Dương minh lỏng lẻo, mà bên lành tức bên không có bệnh co kéo lại gây nên. Nội phong là do Can phong hợp với Đàm hoả ứ trọc bốc lên làm ngăn trở Kinh lạc huyết mạch, khiến cho không khiếu và gân mạch mất nuôi dưỡng mà thành bệnh.
3) Biểu hiện lâm sàng khác nhau: Chứng hậu kinh mạch của ngoại phong có thể kèm theo các hình chứng của lục kinh như đau đầu phát sốt, ố phong, ố hàn, mạch Phù Hoãn hoặc Phù Huyền, Phù Hoạt v.v… không kèm theo lý chạng Phủ. Chứng Can phong nội động không có Lục kinh hình chứng, tuy có chứng trạng về huyết mạch và kinh lạc, thường là dấu hiệu báo trước của chứng hậu nội tạng hoặc xuất hiện di chứng tồn tại, vả lại đồng thời xuất hiện với Tạng Phủ lý chứng như ngã lăn không nói được, hôn mê bất tỉnh v.v…
Chứng Can nhiệt động phong với chứng nội động: Chứng Can nhiệt động phong có đặc trưng của Can phong, khí phát cơn thì bất tỉnh nhân sự, chóng mặt ngã lăn, gáy cứng mắt trợn ngược, chân tay co giật miệng mắt cũng giật, mức độ phát bệnh nhanh gấp, hình thể chao đảo, có chỗ dễ lẫn lộn với Can phong nội động như loại trúng hôn mê ngã lăn. Có bốn điểm để chẩn đoán phân biệt.
Chứng Can nhiệt động phong phần nhiều do đàm nhiệt với kinh gây nên, kháci Can phong nội động phần nhiều do phòng thất mệt nhọc, Thận tinh hao tổn ngấm ngầm, âm hư dương cang hoá phong.
Chứng Can nhiệt động phong tái phát, có thể liên tục có cơn vài ngày hoặc mỗi ngày có vài cơn, sau khi phát cơn, khôi phục trạng thái bình thường nhanh chóng, khác hẳn Loại trúng của Can phong nội động.
ng Can nhiệt động phong hay phát ở lứa tuổi thanh thiếu niên, khác với loại nội phong hay phát ở sau lứa tuổi trung niên trở đi và ở người trạng béo mập.
Chứng Can nhiệt động phong thuộc loại Dương giản, có đầy đủ những đặc điểm của bệnh Giản nói chung như khi phát bệnh hôn mê ngã lăn, đàm nhiệt nghịch lên trên, miệng phải sè bọt rãi, có tiếng kêu như loài vật, giãn đồng tử không có phảnứng, đái ỉa không tự chủ, chốc lát tỉnh lại như người bình thường, có thể phân biệt được với Loại trúng hôn mê ngã lăn nhưng không phát ra tiếng kêu, miệng không sè bọt dãi, và thường chứng miệng mắt méo xếch, bán thân bất toại…
Trích dẫn y văn
Sách Tố Vấn nói Trúng phong không phải là không rõ ràng, nhưng đều là nói bệnh do ngoại nhân. Cảnh Nhạc nói phong tà trúng vào người, vốn chỉ là Biểu chứng. Nội Kinh nói các loại phong, đều là chỉ ngoại tà, cho nên không có các chứng tinh thần hoảng hốt sợ sệt, đờm nghẽn ngã lăn, bại liệt co giật V V. Nếu là hoảng hốt sợ sệt và ngã lăn là do Nội nhân, thì Tố Vấn đã có các loại Đại quyết, Bạc quyết chứ không gọi là Trúng phong, không nói như Giáp ất kinh, lấy chứng ngã lăn, thiên thô, đột tử gọi là trúng phong một phía, mà thiên ở sách Kim Quỹ lại coi các chứng méo lệch bất toại, mình nặng tê dại, hôn mê bất tỉnh, lưỡi cứng mửa đờm rãi là chỉ tặc tà ở Kinh, ở Phủ, ở Tạng, ở Lạc là bệnh Nội phong bạo động, đều là chỉ ngoại cảm phong tà, làm nhiễu loạn những điều nói trong Tố Vấn. Bởi như thế mà bệnh danh Trúng phong là chuyên thuộc về chứng méo xếch bất toại, hoảng hốt sợ sệt và ngã lăn… Nhưng theo sự hoảng hốt ngã lăn gần đây mà nói, phần nhiều đều là Can dương bạo động, khí hoả đều bốc lên, hiệt đàm vọt lên, thở thô và mạnh, cổ nhân nhận là hư hàn, hoàn toàn khác hẳn nhau… Chỉ có nội nhiệt sinh phong, Can dương khuấy động, bức khí huyết xông lên não, mới có tình trạng méo ếch ngã lăn đột ngột thân thể nặng nề tê dại, hôn mê bất tỉnh, lưỡi cứng khó nói, miệng mửa ra đờm rãi như thế, về ngoại hình còn có đặc trưng của chứng Can dương như mặt môi đỏ, thở thô đều do đó, hơn nữa mạch phải Phù Đại, vẩn đục và nhanh gấp, hẳn phải thấy xuất hiện loại mạch Phù Khẩn; tuy có xen kẽ vào chút ít chân dương, và sự lay động của hư phong, mà thấy ngay chứng Thoát, mặt tái tay chân lạ tự ra mồ hôi, giống nhau với loại Hư hàn cùng chọi nhau như sách Kim Quỹ đã nói… Cũng không phải là cái hàn ở Biểu, về mạch thì nên Trì Tế Trầm Phục chứ không có lý gì xuất hiện mạch Phù Khẩn (Trúng phong Tổng luận – Trúng phong hộc thuyên).