Mục lục
Tên khoa học:
Momordica cochinchinensis (Lour) Spreng, họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Tên khác: Mộc miết (木鳖), Muricic (Pháp), Cochinchina Momordica (Anh).
Mô tả:
Cây gấc là một loại dây leo, mỗi năm lụi một lần, nhưng lại đâm chồi từ gốc cũ lên vào mùa xuân năm sau. Lá mọc so le, chia thùy khía sâu tới ½ phiến lá. Hoa đực, hoa cái riêng biệt, cánh hoa màu vàng nhạt. Mùa hoa tháng 4-5. Quả hình bầu dục dài độ 15-20cm, đáy nhọn, ngoài có nhiều gai, khi chín màu vàng đỏ đẹp tươi. Mùa quả tháng 6 đến tháng 2 năm sau. Gấc nếp thì thưa gai hơn gấc tẻ.
Trong quả có nhiều hạt xếp thành những hàng dọc, quanh hạt có màng màu đỏ máu, tươi. Bóc lớp màng đỏ sẽ thấy hạt hình gần giống con ba ba nhỏ, ngoài có lớp vỏ cứng, mép có răng cưa. Trong hạt có nhân trắng chứa nhiều dầu.
Phân bố:
Gấc mọc hoang và được trồng khắp nơi ở nước ta.
Thu hái:
Trồng bằng hạt hay giâm cành vào các tháng 2 – 3, trồng một năm có thể thu hoạch hàng chục năm. Ngay năm đầu đã có quả nhưng ít, càng về sau càng nhiều quả.
Bộ phận dùng:
Màng hạt, nhân hạt (Mộc miết tử – Semen Momordicae), rễ.
+ Hạt gấc: Còn gọi là Mộc miết tử là hạt lấy ở quả gấc chín (Semen Momordicae) đã bốc vỏ màng và chế biến khô.
+ Dầu gấc: (Oleum Momordicae) là dầu ép từ màng đỏ bọc hạt gấc.
+ Rễ gấc: Còn gọi là Phòng kỷ nam là rễ cây gấc (Radix Momordiae) phơi khô.
Thành phần hoá học:
Nhân hạt Gấc có khoảng 6% nước, 8,9% chất vô cơ 55,3% acid béo 16,5% protein, 2,9% đường. 1,8% tanin, 2,8% cellulose và một số enzym. Hạt gấc chứa acid momordic, gypsogenin, acid oleanolic, acid a- elacostearic, còn có acid amin, alcol. Dầu gấc chứa acid oleic 44,4%, acid linoleic 14,7%, acid stearic 7,89%, acid palmatic 33,8%. Màng hạt Gấc chứa một chất dầu màu đỏ mà thành phần chủ yếu là b-caroten và lycopen là những tiền sinh tố A khi vào cơ thể sẽ biến thành vitamin A, lượng b-caroten của Gấc cao gấp đôi của Cà rốt. Thân củ chứa chondrillasterol, cucurbitadienol, 1 glycoprotein và 2 glycosid có tác dụng hạ huyết áp. Rễ chứa momordin một saponin triterpenoid; các chiết xuất cồn có sterol, bessisterol tương đương với spinasterol.
Công dụng, cách dùng:
+ Màng gấc: Nhân dân ta dùng đồ xôi, ăn cả xôi và màng gấc.
+ Dầu gấc: Dầu gấc có tác dụng như những thuốc có vitamin A, dùng bôi lên các vết thương, vết loét, vết bỏng làm cho chóng lành, lên da. Uống dầu gấc, người bệnh chóng lên cân, tăng sức chống đỡ bệnh tật của cơ thể, do chất caroten dưới tác dụng của men carotenase có nhiều trong gan sẽ tách caroten thành hai phần tử vitamin A. Dùng cho trẻ em chậm lớn trong bệnh khô mắt, quáng gà. Liều dùng dầu gấc: Mỗi ngày 2 lần, uống trước 2 bữa ăn chính mỗi lần ăn chính mỗi lần 5 giọt, có thể tăng lên 25 giọt. Trẻ em 5-10 giọt 1 ngày. Dùng ngoài dưới dạng thuốc mỡ 5-10p100 dầu gấc hay bơi bằng dầu nguyên chất (chữa bỏng).
+ Hạt gấc: Theo Đông y, hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ấm, có độc, dùng chữa các chứng bệnh ung thũng, mụn nhọt độc, tràng nhạt, eczema, viêm da thần kinh, trĩ, phụ nữ sưng vú. Có thể chế thuốc viên hay tán bột uống. Liều uống từ 0,8-1,2g.
Nhưng thường dùng đắp ngoài da đồ mụn nhọt. Nhân dân ta còn dùng để đắp chữa chai bàn chân.
+ Rễ gấc: Sao vàng, tán mỏng, dùng uống chữa tê thấp sưng chân gọi là Phòng kỷ nam.
+ Lá gấc: Viện Đông y dùng lá gấc với tầm gửi đắp ngoài ra làm thuốc tiêu sưng tấy.
Thuốc ứng dụng từ quả gấc và hạt gấc
Bài 1. Thuốc chữa bệnh sưng vú
+ Hạt gấc 15g
+ Rượu trắng 15ml
Hạt gấc bỏ vỏ cứng giã nhỏ, cho vào rượu trộn đều, đắp vào chỗ đau. Ngày thay thuốc một lần. cần dùng liền từ 3-5 ngày.
Bài 2. Thuốc chữa bệnh quai bị
+ Hạt gấc 2 hạt
+ Nhựa cây đại 20g
Hạt gấc bỏ vỏ cứng, giã nhỏ cho vào nhựa cây hoa đại trộn đều, đắp lên chỗ đau. cần đắp liền 3-5 ngày.
Bài 3: Thuốc chữa bệnh sốt rét
+ Nhân hạt gấc 100g
+ Vẩy tê tê 100g
Vẩy tê tê nướng phồng cùng hạt gấc tán bột mịn. Người bệnh ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g trước bữa ăn với nước có pha 20% rượu trắng.
Bài 4. Thuốc giúp sáng mắt
+ Quả gấc 1.000g
+ Gạo nếp 500g
+ Đường cát vàng 300g
Quả gấc rửa sạch, đem đồ chín, bỏ vỏ, bỏ hạt, phần còn lại xay nhỏ; cho đường cát vàng vào quấy đều, đun nhỏ lửa, đảo đều tay để chất lỏng của gấc chuyển dần đến cao đặc. Gạo nếp rang vàng tán nhỏ mịn, khi cao gấc đã đặc, cho bột gạo nếp vào luyện viên bằng đầu ngón tay cái, phơi khô đem dùng. Người bệnh ngày uống 3 lần, mỗi lần 6 viên thuốc với nước sôi để nguội, sau khi ăn. Trẻ dưới 1 tuổi uống bằng 1/3 người lớn.
Bài 5. Thuốc chữa mụn nhọt
+ Hạt gấc 30g
+ Vỏ cây đại tươi 30g
Hạt gấc bỏ vỏ đen, cùng vỏ đại giã nhỏ trải vải mỏng buộc vào chỗ đau, ngày thay thuốc một lần. cần làm liền 5 ngày.
Bài 6. Thuốc chữa bệnh trĩ ngoại
+ Hạt gấc 50g
+ Lá vông nem 50g
Hạt gấc bỏ vỏ đen, lá vông nem rửa sạch thái nhỏ. Cả hai thứ giã nhỏ, cho vào vải mỏng gói lại đặt vào hậu môn, ngày thay thuốc một lần. cần làm liền 9 ngày.
Chú ý:
Nhân hạt gấc còn gọi là Phiên mộc miết, theo Đông y có tính rất lạnh, ăn phải thì cấm khẩu nguy hiểm.
Xem tiếp: