Đơn bào amip (có tên là entamoeba histolytica) vào cơ thể sẽ gây ra các tổn thương ở ruột (lỵ amip) hoặc các tổn thương khác ngoài ruột như gan, não, da…

Bệnh amip tại ruột (còn gọi là lỵ amip)

Thông thường tổn thương do amip ở ruột được chia thành 2 thể chính là lỵ amip cấp tính và lỵ amip mạn tính.

Lỵ amip cấp tính

Thời gian nung bệnh có thể dao động từ vài tuần cho tới 3 tháng. Giai đoạn này nhiều người bệnh không có triệu chứng gì điển hình, một số trường hợp chỉ thấy mệt mỏi, chán ăn, chóng mặt, đau bụng, đôi khi có sốt nhẹ. Đến giai đoạn toàn phát, tổn thương do amip mới biểu hiện rõ bởi các triệu chứng như đau quặn bụng từng cơn ở vùng hố chậu phải (vùng hồi manh tràng), nếu bệnh kéo dài có thể đau cả hố chậu phải do tổn thương đại trực tràng; mót rặn và đi ngoài giả (mót đi ngoài nhưng không đi ngoài được); đi ngoài nhiều lần (thường từ 4-10 lần mỗi ngày), phân nhày máu những ngày đầu, những ngày sau thường chỉ có nhày giống như nhựa chuối, nếu có máu thì máu và nhày riêng rẽ chứ không hoà lẫn vào nhau như bệnh lỵ trực khuẩn. Ngoài tổn thương ở ruột gây ra hội chứng lỵ như đã nêu ở trên, các cơ quan khác hầu như không biến đổi, toàn trạng của bệnh nhân không thay đổi nhiều.

Hình ảnh Amip
Hình ảnh Amip

Lỵ amip mạn tính

Nếu lỵ amip cấp tính kéo dài 4-6 tuần mà không được chữa trị hoặc chữa trị không đúng, không dứt điểm, bệnh sẽ chuyển thành lỵ mạn tính. Lỵ amip mạn tính diễn biến kéo dài thi thoảng xen kẽ một đợt cấp tính (như đã nêu phần trên) và có thể kéo dài hàng chục năm.

Điều đáng ngại đối với bệnh amip ngoài ruột là có thể gây viêm phúc mạc do thủng ruột, chảy máu ruột, polyp đại tràng, sa niêm mạc trực tràng (hiếm gặp) hoặc viêm ruột thừa.

Bệnh amip ngoài ruột

Bệnh amip ngoài ruột thường gặp nhất là bệnh viêm gan cấp tính do amip. Viêm gan cấp tính do amip thường xảy ra ở người bệnh có tiền sử nhiễm amip.

Bệnh nhân cảm giác đau tức mạng sườn bên phải, sốt nhẹ hoặc vừa, một số ít trường hợp có kèm theo vàng da viêm gan do amip nếu không được điều trị đúng và kịp thời, bệnh sẽ chuyển thành áp xe gan do amip.

Thường thì các triệu chứng áp xe gan do amip khá rầm rộ, bệnh nhân đột nhiên sốt cao, rét run, vã mồ hôi, dấu hiệu nhiễm độc rất rõ (mệt mỏi, phờ phạc, da xanh tái, mặt hốc hác…). Trong một số trường hợp, bệnh nhân bị áp xe gan do amip có thể có triệu chứng vàng da, bụng trướng. Ở bệnh nhân bị áp xe gan do amip, thường gặp các triệu chứng chỉ điểm như đau tăng khi hít thở sâu hoặc khi nằm nghiêng về bên phải.

Bên cạnh bệnh amip ở gan, amip có thể tối phổi theo đường máu, hoặc do các ổ áp xe gan vỡ gây thủng cơ hoành, mủ tràn lên phổi gây viêm phổi, màng phổi do amip. Triệu chứng thường gặp là bệnh nhân đau ngực, ho, đờm đặc có màu nâu sẫm, có thể sốt nhẹ. Viêm phổi do amip rất dễ chuyển thành áp xe phổi do amip nếu không được điều trị kịp thời. Áp xe phổi do amip thường tiến triển mạn tính và rất dễ dẫn tới viêm mủ màng phổi hoặc rò thông gan phổi. Amip có thể gây áp xe não. Kén amip vào máu tới não gây ra các ổ áp xe ở bán cầu đại não. Lúc này bệnh nhân có dấu hiệu đau đầu dữ dội, sốt dao động, nôn và buồn nôn… Những dấu hiệu thần kinh có thể xuất hiện rõ rệt hoặc mờ nhạt tuỳ thuộc vào vị trí tổn thương ở não.

Amip cũng có thể gây tổn thương ở da, thường gặp là vùng quanh hậu môn, các vết mổ áp xe gan, áp xe phổi. Ban đầu tổn thương chỉ là những đám da đỏ, sau trở thành những vết loét.

Ngoài ra amip cũng có thể gây bệnh ở các cơ quan khác như áp xe lách, áp xe thận…, nhưng hiếm gặp.

Điều trị và dự phòng bệnh do amip như thế nào

Hiện nay người ta thường dùng thuốc có tác dụng trên cả thể amip và thể kén là metronidazol. Trong các trường hợp áp xe ở các cơ quan có kèm theo bội nhiễm vi khuẩn thì phải phối hợp cả thuốc diệt amip và thuốc kháng sinh. Việc điều trị này phải được thực hiện ở khoa truyền nhiễm của các bệnh viện theo đúng kháng sinh đồ.

Về dự phòng, biện pháp phòng bệnh do amip chủ yếu nhất là vệ sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân thật tốt; xử lý phân, đặc biệt không dùng phân tươi để tưới bón cho rau. Khi dùng rau quả tươi, tốt nhất phải rửa thật sạch bằng nước muối, gọt vỏ để loại bỏ kén amip, không nên ăn rau sống. Bên cạnh đó cần phát hiện và kiểm soát những người mang kén amip bằng thuốc chứa metronidazol để cắt nguồn lây của amip trong cộng đồng.

0/50 ratings
Bình luận đóng