Thành phần Bát trân thang
Đương quy 10g Nhân sâm 3g
Xuyên khung 5g Bạch linh 8g
Bạch thược 8g Bạch truật 10g
Thục địa 15g Cam thảo 5g
Cách dùng: nước sạch hai bát, thêm sinh khương 3 lát, đại táo hai quả, sách đến 8 phần, uống trước ăn.
Công dụng
Bổ ích khí huyết.
Chủ trị
Chữa chứng khí huyết lưỡng hư: Sắc mặt trắng nhợt hay vàng nhạt, hồi hộp, ăn kém, chậm tiêu, đoản khí, ngại nói, mệt mỏi, hoa mắt, chúng mặt, nhạt miệng, chất lưỡi bệu nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế mà hư.
Phương giải:
Trên lâm sàng nếu không chỉ là huyết hư mà có cả khí hư thì khí huyết cùng bổ, thì dùng phúc phương – bát trân thang do tứ quân tử thang và tứ vật thang kết hợp mà thành. Đây đều là dạy người ta một phương pháp, một nguyên tắc, trên lâm sàng còn căn cứ cụ thể vào sự cần thiết của bệnh chứng, trong phối ngũ điều chỉnh trọng tâm bổ khí và bổ huyết. Do đó tên gọi tứ quân tử thang, tứ vật thang đều đưa ra một vài ví dụ, giới thiệu quy luật biến hóa của nó hợp lại còn cần suy xét khí hư, huyết hư vấn đề nào là chủ, nếu hai phương diện đều hư như nhau, thì cần khí huyết cùng trọng.
Bát trân thang còn có hai phụ phương, một cái là thập toàn đại bổ hoàn, một cái là nhân sâm dưỡng vinh thang. Thập toàn đại bổ hoàn chính là bát trân thang thêm hoàng kỳ nhục quế, đây chính là trong tình trạng khí huyết đều hư, tăng cường bổ khí ôn dương, khiến dương sinh âm trưởng, khiến công năng của bổ huyết thêm mạnh, nên nói là điều trị khí huyết đều hư mà thiên về hàn. Về nhân sâm dưỡng vinh thang mà nói, qua bổ khí chú trọng bổ huyết. Phương tễ này có biến hóa chính là thập toàn đại bổ hoàn bỏ đi Xuyên khung, ngoài ra thêm 3 vị là Viễn trí, Ngũ vị, Trần bì gần giống với quy tỳ thang. Qua vấn đề này tôi muốn nói rõ phần dưới hai điểm, thứ nhất, trong khí huyết hư mà không cần hòa huyết là lý ở đâu, đặc biệt là doanh huyết hư mà trệ, là do huyết hư mà khí cũng hư, hiện nay có bổ khí lại có bổ huyết, nên bỏ đi một vị phương hương mà hành huyết, bất lợi ở xuyên khung bổ huyết. Do huyết hư, khí cũng hư, ở đây cũng có thuốc bổ khí, ngoài nó còn có trần bì, như vậy cùng ý nghĩa với dị công tán, khiến bổ khí mà không ủng, qua bổ khí mà hành khí. So sánh các vị thuốc này và xuyên khung tuy đều là tân ôn, nhưng không táo, đồng thời trực tiếp nhập huyết. Vậy tại sao nhục quế dùng ở đây? Ở đây liên quan đến 1 vấn đề, chính là trung y hay nói, huyết là chỗ nào sinh thành. Trung y trong thực tiễn lần mò ra một kinh nghiệm chính là làm sao “ biến hóa nhi xích thị vị huyết”, là thông qua trung tiêu, tức sự hấp thu của tỳ vị, vận hóa của tỳ, lại thêm quan hệ dương của tâm thận do đó ở đây nói dùng đến nhục quế, mới thêm Viễn trí, Ngũ vị. Từ lý luận trung y, trung tiêu thụ khí thu trấp, đây là thông qua tinh hoa của tỳ vị hấp thu thủy cốc mà nói, tức nhận tinh khí và tinh trấp của thủy cốc, đây là nguyên liệu tạo máu. Khí và trấp của thủy cốc đều không màu đỏ, nhưng thông qua khí hóa, biến hóa mà đỏ. Làm sao biến hóa được? chính là thông qua tác dụng khí hóa của tâm, thận, mệnh môn. Do đó hiện nay phương tễ như vậy dùng điều trị các loại thiếu máu hiệu quả khá tốt.
Vấn đề chủ yếu của bổ huyết có hai trọng điểm, một là nguyên liệu, một là công năng, do đó bản thân ăn uống vào không tốt, không có nguyên liệu tạo máu để hấp thu vào, trong tình trạng như vậy, tuy là thiếu máu, nhưng đầu tiên phải kiện tỳ vị. Nếu như có thể ăn, ăn muốn không giảm, ăn không kém, vẫn thiếu máu thì rõ ràng là có nguyên liệu nhưng không thể vận hóa, như vậy khi điều trị thì cần xem xét là công năng vận hóa của tỳ không được, hay là tỳ dương hư hoặc dương của tâm thận bất túc gây ra.
Thập toàn đại bổ hoàn và nhân sâm dưỡng vinh hoàn thì đơn giản. Về bát trân thang, khí huyết đều hư thì khí huyết cùng bổ. Nhưng trong khi dùng cụ thể, cần xem đâu là chủ, thì lấy thuốc nào làm chủ. Thập toàn đại bổ hoàn và nhân sâm dưỡng vinh hoàn, đặc biệt là nhân sâm dưỡng vinh hoàn trong điều trị thiếu máu cơ năng, cùng sẽ là khi công năng biến hóa không đủ, hiệu quả khá tốt.