HÙNG ĐỞM (mật gấu)
Tên khoa học vị thuốc: Fel Ursi
Các loại gấu: Ở Việt Nam có ba thứ gấu:
– Gấu heo (Meurzus ursinus) mõm giống mõm heo (lợn)
– Gấu chó (Helaretos malayanus) nhỏ, tai ngắn, ngực có khoang chữ V màu ngà.
– Gấu ngựa (Selenarctos thibetanusG.Cuvier), có khoang chữ V trắng, to hơn gấu chó.
Đều thuộc họ gấu (Ursidae).
Mật tốt nhất là mật gấu ngựa, to bàng cái phích nhỏ; thứ nhì là mật gấu heo; mật gấu chó kém nhất nhưng thương thấy gấu ngựa hay trèo lên cây cao ăn mật ong, ăn xong, ngửa mặt rơi xuống đất bất tỉnh. Người ta đến trói lại, cho khi nó tỉnh lại (để mật hồi lại) mổ lấy mật.
Chế biến bảo quản: mật gấu lấy được, buộc cổ túi mật lại, nhúng qua cồn 900 để một lúc, lấy hai thanh tre đã rửa sạch luộc kỹ kẹp nhẹ lại, đun nhỏ lửa, sấy nhẹ 5 -6 ngày, treo lên chỗ thoáng gió 10 ngày, nước mật đông lại thì ép nhẹ cho túi mật dẹp lại. Gói giấy bóng kính, để vào hộp đậy kín dưới có lót vôi sống để hút ẩm, để nơi mát. Có người nhận thấy đậy kín trong lọ có lót vôi sống cũng thành khô. Nói chung phải khô, không dùng sức nóng để làm khô.
Phẩm chất, thật giả:
– Khi cắt túi mật, sẽ thấy có chất đen nhánh, giữa đám đen có những hạt lổn nhổn màu vàng óng ánh như hổ phách, nếm sẽ thấy vị đắng, sau ngọt rồi mát, dính lưỡi, ngậm lâu sẽ tan hết trong miệng. Mật khác đắng, nhưng không dính lưỡi không mát không bóng, mùi tanh, khó ngửi.
– Mật gấu đốt không cháy.
– Lấy một hạt mật thả trên mặt nước sẽ thấy có những sợi màu vàng thõng thẳng xuống đáy bát nước. Nếu hạt mật gấu lại quay tít thì lại càng tốt.
– Lấy một bát nước, một góc để ngọn bấc đốt bằng sáp ong, góc đối diện nhỏ một giọt mật gấu thì thấy mật đi sang chỗ sáp ong. Các mật khác không đi như vậy.
– Nhỏ một giọt mật gấu vào máu thì máu không đông được hoặc đã đông rồi thì lại tan ra.
– Lấy một giọt mật gấu hòa tan trong 1ml nước cất và một ít saccharose, rồi thêm 1 -2 giọt acid sunfuric, sẽ thấy xuất hiện màu đỏ rất đẹp.
Thành phần hóa học: Các loại muối kim loại của các acid cholic, cholesteron, sắc tố mật (bilirubin), Trong các acid cholic, đặc biệt có acid ursoderoxycholic chỉ thấy trong các mật gấu mà thôi, đặc điểm này để người dùng phân biệt mật gấu với các mật khác.
Tính vị – quy kinh: Vị đắng, tính hơi ngọt. Vào ba kinh tâm, can và vị.
Công dụng: Phá ứ, hồi sinh (ngã bất tỉnh), đau nhức, trị quặm mắt (dùng thứ mật thật); trị kinh giản, hoàng đản.
Liều dùng: Ngày dùng 0,50 – 2g để uống hòa tan với nước ấm hoặc với cháo.
Cách bào chế:
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
– Thuốc nhỏ mắt: hòa tan mật gấu khô bằng hạt gạo với 2ml nước đun sôi lọc qua bông để nguội (hoặc nước cất càng tốt). Nhỏ vào mắt (bị va chạm thành đau mắt) trước khi đi ngủ.
– Thuốc xoa bóp: lấy 5g mật gấu, hòa tan
trong 100ml rượu thường, dùng đế xoa chỗ sưng đau.
Ghi chú:
– Bàn tay gấu cũng quý, nấu với rượu (một phần) giấm (nửa phần) và nước (2 phần) để phòng ngừa phong hàn và bổ ích cho khí vực.
– Thịt và xương dùng nấu cao trị phong thấp, cách nấu như cao khỉ.
Bảo quản: Dễ bị sâu, mốc nên cần tránh ẩm, tránh nóng, để trong lọ hay hộp sắt kín có lót chất hút ẩm (silicagel, vôi sống v.v…).