Trong năm 2012 ở Hoa Kỳ, có 17,460 ca mắc và 15,070 người tử vong; ít gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Tỷ lệ cao nhất trong các vùng trọng điểm của Trung Quốc, Iran, Afghanistan, Siberia, Mongolia. Ở Hoa Kỳ, người da đen bị ảnh hưởng nhiều hơn người da trắng; thường xuất hiện trong thập kỷ thứ sáu hoặc muộn hơn ; tỷ lệ sống 5 năm < 5% vì phần lớn bệnh nhân mắc phải ung thư tiến triển.

Bệnh học

60% ung thư tế bào vẩy, phần lớn thường thấy ở 2/3 trên; < 40% ung thư biểu mô tuyến, thường ở 1/3 dưới, phát sinh trong vùng chuyển sản dạng trụ (thực quản Barrett), mô tuyến, hoặc là lan rộng trực tiếp từ ung thư biểu mô tuyến dạ dày phần gần; hiếm thấy trong u lympho và u sắc tố. Trong tổng số ung thư thực quản, 10% xuất hiện ở 1/3 trên, 35% ở 1/3 giữa, và 55% ở 1/3 dưới.

Yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ chính trong bệnh ung thư tế bào vảy: lạm dụng rượu, hút thuốc (hiệp đồng khi kết hợp nhiều loại); các yếu tố khác: Uống nhầm dung dịch kiềm và sự co thắt thực quản, nhiễm xạ trị, ung thư đầu và cổ, bệnh tâm vị mất dãn, nghiện opiat, hội chứng Plummer-Vinson, tylosis, sử dụng trong thời gian dài trà quá nóng, thiếu vitamin A, kẽm, molybdenum.

Thực quản Barrett là 1 yếu tố của bệnh ung thư biểu mô tuyến.

Đặc điểm lâm sàng

Khó nuốt tăng dần (đầu tiên với chất đặc, sau đó là dịch lỏng), giảm cân nhanh chóng, đau ngực (xung quanh trung thất), khó nuốt, khó thở (tắc nghẽn, dò khí thực quản), khản giọng (liệt dây thần kinh thanh quản), tăng calci máu (ung thư biểu mô vảy gây tăng tiết peptid giống hormon cận giáp); ít gặp chảy máu, thỉnh thoảng nghiêm trọng; thăm khám thường không phát hiện được.

Chẩn đoán

Trong nuốt khó chụp barit cản quang kép được sử dụng hữu ích như xét nghiệm đầu tiên; nội soi dạ dày thực quản ngược dòng là xét nghiệm nhạy và đặc hiệu nhất; tác nhân gây bệnh được xác định bằng sự kết hợp giữa nội soi sinh thiết và phân tích tế bào học diềm bàn chải niêm mạc (tách riêng không đủ độ nhạy); CT và siêu âm qua nội soi đánh giá tốt sự thâm nhiễm vào hạch và vùng lân cận.

Điều trị ung thư thực quản

Phẫu thuật cắt bỏ chỉ có khả năng ở 40% bệnh nhân; đi kèm với tỷ lệ lớn các biến chứng (dò, áp xe). Ung thư biểu mô tế bào vảy: Phẫu thuật cắt bỏ sau hóa trị [5-fluorouracil (5FU), cisplatin] kết hợp xạ trị suốt đời có thể cải thiện tỷ lệ khỏi. Ung thư biểu mô tuyến: Phẫu thuật cắt bỏ hiếm có khả năng; < 20% bệnh nhân sống thêm 5 năm với các khối u có thể cắt bỏ. Các biện pháp giảm nhẹ bao gồm cắt đốt bằng laze, dãn cơ học, xạ trị, và 1 ống giả có thể loại bỏ khối u. Cắt dạ dày và mở thông hỗng tràng thường được yêu cầu để bổ trợ dinh dưỡng. Hóa trị đồng thời với xạ trị trước phẫu thuật phần nào ảnh hưởng nhiều hơn nhưng cũng độc hại hơn.

0/50 ratings
Bình luận đóng