TRÚC ĐÀO

Dược liệu là lá của cây trúc đào – Nerium oleander L. họ Trúc đào – Apocynaceae. Loài Nerium odorum Soland. cũng được dùng.

Đặc điểm thực vật

 Trúc Đào là Cây gỗ nhỏ, mọc thành bụi cao 3-5 m. Thân non dẹp, sau đó trở nên tròn, màu xanh, có nhiều lông nhỏ; thân già màu nâu mang thẹo cuống lá. Lá tập trung ở ngọn, đơn, nguyên, mọc vòng 3 hay mọc đối (lá cuối của mỗi cành), lá thon hẹp, có mũi nhọn, dài 7-10 cm, rộng 1-4 cm, mặt trên xanh thẫm, mặt dưới nhạt. Mép lá cong xuống ở mặt dưới. Cuống lá dài 7-9 mm, hình lòng máng, có nhiều tuyến màu nâu thường tập trung ở mặt trên, đáy cuống lá. Gân lá hình lông chim, gân chính nổi rõ ở mặt dưới; gân phụ nhiều, đều, song song hai bên gân chính, không nổi rõ ở mặt dưới. Cụm hoa: Xim phân nhánh ở ngọn cành. Hoa đều, lưỡng tính. Cuống hoa dài 7-10 mm, màu nâu nhạt. Lá bắc dài 5-6 mm, nhọn, rụng sớm. Lá bắc con dài 4-5 mm, dài nhọn. Lá đài 5, rời, hình tam giác, dài 5-6 mm, màu nâu tím, có lông ở mặt ngoài, mặt trong có nhiều tuyến nhỏ màu vàng. Cánh hoa 13-20, mang phụ bộ hình sợi ở bên trong, 5 cánh trong cùng dính nhau thành hình ống hơi loe ở đỉnh, màu trắng có sọc hồng, dài 7-10 mm; trên chia thành 5 phiến dài 2,5-2,7 cm, màu hồng có sọc trắng, các cánh còn lại có thể dính hoặc rời; phía ngoài các cánh hoa có 5-6 phiến nhỏ không mang phụ bộ, cùng màu cách hoa. Tiền khai vặn 5 nhị rời, đính trên ống tràng. Chỉ nhị dẹp, màu trắng, có nhiều lông ở mặt trong, dài 2-4 mm. Bao phấn hình mũi tên, 2 ô, hướng trong, khai dọc, có lông ở mặt lưng, chung đới kéo dài thành dạng sợi dài 5-6 mm, có nhiều lông. Hạt phấn rời, hình cầu, có 1 lỗ. 2 lá noãn rời thành bầu trên 2 ô, mỗi ô nhiều noãn, đính noãn mép. Bầu có nhiều lông ở 1/2 đỉnh bầu. 1 vòi nhụy hình sợi, màu trắng, dài 6-9 mm, hơi phình ở đỉnh, dính vào bao phấn. Đầu nhụy dạng khối có chóp hình nón, dài khoảng 1 mm, màu vàng. Quả và hạt: 2 quả đại dài 13-20 cm, mặt ngoài có nhiều sọc chứa nhiều hạt có lông dài, màu hung. Toàn cây có nhựa mủ trắng và độc, có thể gây tai  nạn cho người và gia súc.
Ở nước ta, trúc đào được trồng làm cảnh ở các công viên và vườn hoa. Loài Nerium odorum Soland. có hoa thơm và tràng thường kép, màu hồng.
Thu hái: Thu hái vào tháng 10 – 11 hoặc vào tháng 4, hái những lá dài trên 10 cm. Hái về làm khô ngay ở nhiệt độ không quá 500C.
Vi phẫu lá: Gân giữa: Lồi rõ ở mặt dưới, mặt trên phẳng, hơi lõm ở giữa. Biểu bì trên và biểu bì dưới 1 lớp tế bào nhỏ xếp đều đặn, mang lông che chở, bên ngoài có phủ một lớp cutin dày. Dưới biểu bì là đám mô dày góc. Mô mềm gồm những tế bào màng mỏng, hình tròn hay bầu dục dẹp, kích thước khác nhau, chứa tinh bột và nhiều tinh thể calci oxalat hình cầu gai. Có nhiều tinh thể calci oxalat hình khối ở libe. Bó libe-gỗ chồng kép hình vòng cung gồm những đám libe tế bào nhỏ xếp thành 2 cung bao bọc lấy cung gỗ. Nhiều đám sợi vách bằng cellulose xếp mặt trên và mặt dưới cung libe. Phiến lá: Tế bào biểu bì nhỏ, xếp đều đặn mang lông che chở, bên ngoài có phủ một lớp cutin dày. Bên dưới biểu bì trên và dưới có 3-4 lớp tế bào mô dày. Mô mềm giậu gồm 2-3 lớp. Mô mềm khuyết gồm những tế bào màng mỏng, phân nhánh, chừa khuyết to. Biểu bì dưới có nhiều phòng ẩn lỗ khí lớn, có nhiều lông che chở đơn bào dài. Tinh thể calci oxalat hình cầu gai ở phần tiếp giáp giữa mô mềm giậu và mô mềm khuyết.
Bột lá: Màu xanh lục nhạt, gồm các thành phần: Mảnh tế bào biểu bì chứa lỗ khí, mảnh tế bào biểu bì, mảnh mô mềm, mảnh mô dày, mô mềm khuyết, mô mềm giậu, có nhiều tinh thể calci oxalat hình cầu gai, tinh thể calci oxalat hình khối, đám sợi mô cứng, mạch xoắn, mạch vạch, hạt tinh bột, lông che chở.

Thành phần hóa học

Trong lá Trúc đào người ta nghiên cứu thấy bốn glucosid chủ yếu là oleandrin, nerin, neriantin, adynerin.
1. Oleandrin còn gọi là Neriolin (Liên Xô cũ) hay folinerin (Theo Schering)  hoặc Oleandrosid có công thức nguyên là C32H48O9 Trọng lượng phân tử là: 576,70 là 1 glucosid không màu, có tinh thể hình kim, vị rất đắng. Nhiệt độ nóng chảy 245 – 250 độ C, năng suật quay cực là αD= -50 -51 01 Trong rượu methylic kém hơn trong rượu ethylic). Cho phản ứng Legel và phản ứng Keller – Kiliani.
Oleandrin
Thủy phân acid (dùng HCl 0.1 N, trên nồi cách thủy 2 giờ). Sẽ cho phản ứng là Oleandrigenin (hay 16 acetyl gitoxigenin) và một chất đặc biệt là Cleandrosa. Nhưng nếu dùng dung dịch 0,5 N HCl thủy phân trong  4 giờ trên nồi cách thủy
Tạo ra dianhydrogitoxigenin. Nếu dùng dung dịch kiềm nhẹ để thủy phân thì sẽ thu được gốc Desaxtyloleandrin.
Desaxtyloleandrin., hoạt tính sinh vật là 6000 Đ.V.E trong 1 gam.
2.         Nerin:
Còn gọi là Neriosid. Đây không phải là một nguyên chất mà là 1 hỗn hợp các glucosid trợ tim không có tinh thể, bột vô định hình, màu vàng tan trong nước và rượu, không tan trong ether ethylic và ether dầu hỏa, chloroform, benzen, acetat ethyl, dung dịch lỏng, trong nước dễ tạo bọt, vị đắng, đun tới 160 – 170 0C thì phân giải, năng suật quay cực α d = -20 0 C (C = 5%  trong cồn ) cho phản ứng Legal, không cho phản ứng  Keller – Kiliani mặt phân cách 2 lớp dung dịch có màu đỏ, lớp acid acetic có màu vàng xanh. Sau khi thủy phân bằng dung dịch 3 HCl đun sôi đến 37 – 39 % chất genin vô định hình, trong đó chỉ có 7- 10 % là không tan trong clorofoc. Do đó Zabolotnaiu là người nghiên cứu chất này đã đi đến kết luận là ít nhất neriin gồm 2 chất khác nhau. Nerin có tác dụng trợ tim yếu.
3. Adynerin
Là một glucosid có tinh thể, không tan trong nước và benzen, tan trong cồn cao độ 97 0C, chloroform, khó tan trong cồn methylic. Độ chảy 219-220 0C. Năng suất quay cực αD = + 9 038, trong công thức có một nối kép giữa C8 và C9, do đó không có tác dụng trợ tim.
Adynerin
4.         Neriantin
Là một glucosid có tinh thể hoặc vô dịnh hình, vị đắng, tan trong nước và cồn, không có tác dụng trợ tim. Công thức cấu tạo chưa được xác định rõ ràng, trong phân tử có 2 nối kép nhưng vị trí chưa xác định.
Neriantin, tuy hàm lượng nhiều nhưng hoạt tính sinh vật rất thấp vì không có nhóm OH ở C-14 nên không có ý nghĩa thực tế.
Neriantin
Ngoài ra, trong lá còn các thành phần khác như: acid ursolic, các dẫn chất flavonoid: rutosid và nicotuflovin (=3 rhamnoglucosid của kaempferol).
Vỏ cây có chứa 4 glycosid tim, ngoài ra còn có plumierid là một iridoid glycosid, vỏ cây không có ý nghĩa thực tế.
Hạt chứa 26 glycosid.
Chiết xuất oleandrin
Gồm 4 giai đoạn
a)      Chiết: Lá khô đem xay thô (2-5 mm). Ngâm 5kg bột lá với 50 lít cồn 250 trong 24 giờ. Gạn được chừng 25-27 lít, ép bã lấy thêm được 18-20 lít nữa.
b)      Loại tạp: Dồn các dịch chiết lại rồi thêm 1/2 lít dung dịch chì acetat 30%. Sau đó thử xem đã hết tạp chưa bằng cách lọc một ít và thêm vào dịch lọc một ít chì acetat, nếu còn tủa thì phải thêm chì acetat nữa. Để yên trong 1 đêm, gạn lấy nước trong, phần không gạn được thì lọc, rửa cặn với 2 lít cồn 25O. Dồn các nước trong lại và rót dần vào đấy 2 lít dung dịch Na2SO4 15%, quấy đều, lọc, thử xem đã hết Pb(CH3COOH)2 chưa, nếu còn phải thêm dung dịch Na2SO4.
c)      Bốc hơi dung môi: Cho dịch lọc vào nồi, bốc hơi ở áp suất giảm, nhiệt độ từ 50-55O. Cất cho đến khi còn 1/6 thể tích ban đầu nghĩa là còn khoảng 8 lít, để nguội. Glycosid thô sẽ đọng lại ở đáy nồi (khoảng 48-50g).
d)        Tinh chế:  Cho glycosid thô vào bình, thêm 200ml cồn 700, đặt vào nước nóng cho tan hết, rồi cho vào tủ lạnh trong vài ngày. Lọc lấy tinh thể, kết tinh lại một vài lần, sẽ thu được 5-6g oleandrin tinh chế.

Tác dụng dược lý và độc tính

a)        Tác dụng dược lý:
Lá trúc đào chứa nhiều loại glycosid. Đã chứng minh tác dụng trợ tim của 16-anhydrodigitalinum verum monoacetat, odorosid D, K, odorobiosid K, monoacetat của odorotriosid G, odorobiosid G và odorosid H. Hàm lượng thấp của những glycosid này ngăn cản việc đưa chúng vào thử lâm sàng. Hoạt chất chính oleandrin của lá trúc đào hấp thụ tốt khi uống, và khác với Digitalis là ít tích lũy, có tác dụng kích thích tim và lợi niệu rõ rệt. Nerifolin tác dụng yếu hơn nhiều. Các flavonol glycosid có tác dụng đối với độ thấm thành mạch và lợi tiểu. Trên lâm sàng, cornerin có tác dụng đối với các rối loạn về tim, đặc biệt cải thiện chức năng của cơ tim. Vỏ có 1 glycosid độc, rosaginin.
Trúc đào có hoạt tính ức chế sự sinh trưởng đối với các dòng tế bào ung thư người, với liều có tác dụng ED50 xê dịch từ 0,008 đến 2,13 microgam/ml, tùy thuộc vào dòng tế bào. Cao cồn trúc đào (lá, thân, rễ) có tác dụng kháng siêu vi khuẩn trong thí nghiệm xác định nồng độ tối thiểu ức chế sự phát triển của siêu vi khuẩn, và tác dụng chống ung thư trong thử nghiệm  xác định nồng độ thấp nhất diệt các tế bào một tầng phát triển nhanh lấy từ thận khỉ được nuôi cấy và gây nhiễm với siêu vi khuẩn bệnh herpes typ 1.
Một phân đoạn polysaccharid thô, thu được do tủa từ cao nước trúc đào bằng cồn, đã có hoạt tính rất cao trong thử nghiệm về thực bào bạch cầu hạt in vitro, với những nồng độ từ 10-6 đến 10-2 mg/ml. Phân đoạn này cho nhiều polysaccharid với trọng lượng phân tử tương ứng từ 17.000 đến 12.000 D, xác định bằng phương pháp lọc đông và sắc ký trao đổi ion. Từ dịch thẩm tách, đã thu được một hỗn hợp polysaccharid do tủa bằng cồn, tiếp theo bởi sắc ký đông. Hỗn hợp này gồm ba polysaccharid có trọng lượng phân tử tương ứng: 3.000; 5.500 và 12.000 D. Chúng đều chứa acid galacturonic cùng với rhamnose, arabinose, xylose, galactose và glucose. Hỗn hợp polysaccharid này có hoạt tính rất cao trong các thử nghiệm miễn dịch học vê thực bào bạch cầu hạt, về yếu tố hoại tử u, và về sự chuyển dạng của tế bào lympho.
Glycosid toàn phần (thuốc neriolin) sản xuất từ lá trúc đào ở Việt Nam dưới dạng thuốc uống, được áp dụng điều trị cho bệnh nhân suy tim, đã có tác dụng trợ tim tốt, làm đỡ triệu chứng khó thở ở bệnh nhân suy tim sau 2-3 giờ (tác dụng rõ rệt). So với digitalin, neriolin (oleandrin) có những ưu điểm sau:
–            Hấp thụ nhanh khi qua bộ máy tiêu hóa nên không bị các men và acid của bộ máy tiêu hóa phá hủy.
–            Tích lũy rất ít.
–            Làm đi tiểu nhiều.
b)        Độc tính:
Độc tính của lá trúc đào đã được biết từ lâu. Tại châu Âu, người ta kể những trường hợp lính vùng đảo Corse (một đảo thuộc miền Nam nước Pháp) đã bị ngộ độc chết do ăn chả dùng

cành cây trúc đào xiên vào thịt nướng. Có những người đã ngộ độc nặng do uống nước đựng trong chai nút bằng thân cây trúc đào, hay do uống nước suối có rễ cây trúc đào mọc ở gần. Nhân dân tỉnh Nice đã dùng bột vỏ thân và bột gỗ trúc đào để đánh bả chuột.

Công dụng:

·           Lá trúc đào được dùng làm nguyên liệu chiết xuất oleandrin, là thuốc uống được chỉ định điều trị suy tim, hở lỗ van hai lá, nhịp tim nhanh kịch phát, các bệnh tim có phù và giảm niệu, và dùng luân phiên với thuốc Digitalis. Neriolin dùng dưới hình thức dung dịch rượu và thuốc viên.
Ø        Dung dịch rượu 1/5.000 chế như sau:
Neriolin 0,20g, cồn 700. Đun cách thủy cho đến khi tan hết neriolin. Để nguội, thêm cồn 70O vào cho đủ 1 lít. Lọc qua giấy. Để vào các lọ màu, mỗi lọ 10-15 hay 20ml. Phải bảo quản ở nơi mát. Ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 10 (X) giọt.
Ø         Viên neriolin: Mỗi viên chứa 0,1 hay 0,2mg. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 viên 0.1mg.
Theo kinh nghiệm điều trị ở Bệnh viện Việt – Tiệp Hải Phòng, ngày dùng khoảng 0,4-1,2mg. Có thể dùng liên tục vì thuốc thải trừ nhanh chóng, có bệnh nhân dùng hằng năm mà không có triệu chứng ngộ độc.
·           Vì có tính độc cao, nên trúc đào không được dùng làm thuốc uống trong y học cổ truyền, chỉ dùng để chế thuốc trừ sâu và nấu nước rửa trị ghẻ lở (20-30g lá tươi nấu nước đặc rửa, ngày một lần).
·           Trong y học dân gian ấn độ, lá trúc đào dùng để chữa phát ban ở da. Nước sắc lá được dùng để diệt giòi ở vết thương. Cao nước lá, cành, rễ và hoa độc đối với một số loài sâu bọ. Cây trúc đào được dùng làm bả chuột ở Nam châu Âu. Mật ong từ nhụy hoa trúc đào cũng có thể có độc. ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân dùng cao nước lá trúc đào để điều trị ung thư. ở Angieri, thuốc sắc lá trúc đào trị eczema và chống nhiễm khuẩn. 
https://hoibacsy.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ môn dược liệu (2011), “Bài giảng dược liệu”, tập I. Trường đại học Dược Hà Nội
Bộ môn dược liệu (1998), “Bài giảng dược liệu”, tập II. Trường đại học Dược Hà Nội.
Đỗ Tất Lợi (2004), “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, Nhà xuất bản Y học.
Viện dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, tập I, Nhà xuất bản khoa hoc kỹ thuật.
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật.

0/50 ratings
Bình luận đóng