Sinh thiết ở sau cơ bậc thang (phương pháp Daniels): đôi khi có kết quả dương tính trong những trường hợp sưng hạch bạch huyết trung thất, trong bệnh u hạt, và trong trường hợp có u ác tính.
Sinh thiết phổi
- Qua thành ngực bằng kim nhờ hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính: có ích trong chẩn đoán tế bào những tổn thương nốt hoặc những vùng mờ đậm đặc ở phần ngoại vi của phổi có vẻ là những khối u.
- Qua thành phế quản bằng ống nội soi mềm:cho phép lấy được mô phế nang ở cạnh phế quản. Kỹ thuật này có ích trong chẩn đoán những khối u trung thất và u phổi, chẩn đoán bệnh sarcoid, và bệnh u hạt Tuy nhiên kỹ thuật này không đáng tin cậy trong chẩn đoán bệnh bụi phổi. Nguy cơ bị tràn khí phế mạc rất nhỏ, nhưng sinh thiết qua thành phế quản có chống chỉ định ở những đối tượng có cơ địa chảy máu.
- Mở lồng ngực thăm dò:được chỉ định trong trường hợp những biện pháp kể trên thất bại. Mỏ lồng ngực thăm dò đặc biệt có ích trong chẩn đoán bệnh phổi mô kẽ mạn tính, và cần phải thực hiện để lấy được những mẫu bệnh phẩm khá lớn dùng trong xét nghiệm mô học.
Chọc-sinh thiết màng phổi: thực hiện sau khi gây tê tại chỗ, với một kim đặc biệt người ta có thể lấy được một mẩu nhỏ màng phổi thành (lá thành của màng phổi). Kỹ thuật này đưa lại một tỷ lệ kết quả dương tính cao trong chẩn đoán bệnh lao (phối hợp xét nghiệm mô học và xét nghiệm vi khuẩn ở mẩu bệnh phẩm sinh thiết), trong chẩn đoán u trung-biểu mô, những trường hợp viêm màng phổi do u, và bệnh ung thư màng phổi do di căn. Chống chỉ định chọc-sinh thiết màng phổi trong trường hợp viêm màng phổi mủ và ở những bệnh nhân có rối loạn đông máu.
Soi lồng ngực (soi ổ màng phổi): được thực hiện bằng một ống nội soi, trong điều kiện vô khuẩn nghiêm ngặt (vì có nguy cơ gây ra viêm màng phổi mủ), sau khi đã gây mê toàn thân và gây tràn khí màng phổi chủ động (bơm không khí vào khoang phế mạc). Thủ thuật này cho phép sinh thiết lấy bệnh phẩm ở màng phổi dưới sự kiểm soát bằng mắt nhìn, và có ích trong trường hợp viêm màng phổi mạn tính (diễn biến lâu hơn một tháng), dính màng phổi, hoặc trong quá trình viêm màng phổi do khối u.
Nội soi-vô tuyến lồng ngực: phát minh những máy thu hình nội soi đã cải thiện chất lượng quan sát và cho phép làm sinh thiết ở trung thất và ở khoang màng phổi (ổ màng phổi), cũng như làm một số thủ thuật mà trước đây thường vẫn phải mở lồng ngực.
Nội soi trung thất: được thực hiện bằng một ống nội soi, sau khi đã gây mê toàn thân. Kỹ thuật này được chỉ định để chẩn đoán mô học những trường hợp sưng hạch bạch huyết trung thất, nhất là sưng những hạch ở chuỗi cạnh khí quản phải và trước, hoặc sinh thiết một khối u trung thất. Soi trung thất ở bên trái khó hơn vì có quai động mạch chủ.