Ngộ độc CO (ôxit carbon)

Trong quá trình sản xuất phân hóa học, đúc luyện gang, v.v…, khi làm việc ở những đường hầm, hay các giếng hoặc khi đốt lửa sưởi trong nhà, trong tình trạng không khí bị ô nhiễm, đều rất dễ xảy ra ngộ độc co – ôxit cảrbon. Kiểm tra máu thấy có lượng Carbonnic trong Hemoglobin (HbCO), công việc này đã giúp cho chẩn đoán lâm sàng.

  • Phân tích định tính.

Lấy 3 đến 4 giọt máu pha với 10 ml nước cất và vài giọt dung dịch Hydro Carbonnat Natri 10% lắc đều, rồi quan sát màu sắc của dung dịch, người bình thường có mầu sẫm, người bị ngộ độc CO thấy có màu hồng đào.

  • Phân tích định lượng.

Lấy 0,1 ml máu tươi pha với 20 ml Neodymium Hydrocide 0,04 mmol/1 trộn đều, cho thêm 20 mg Sodium Sulffite (phấn bảo hiểm) lắc đều, trong 10 phút rồi lấy một quang kế đo độ sáng kiểm dịch ở làn sóng 538 nm đến 578 nm đo theo công thức HbCO(%) = (2.44 X A538/A578 – 2.68) X 100%.

Của người bình thường hàm lượng trong máu là 1%, người hút thuốc là 5% đến 10%. Khi HbCO đạt 15% người bệnh có nhiễm chứng chủ quan, khi lớn tối 20% thì đó là biểu hiện rõ rệt của việc ngộ độc co cấp tính.

Ngộ độc thuốc sâu Phospho hữu cơ

Chỉ tiêu kiểm tra ngộ độc chủ yếu là xét nghiệm chất Choline Esterase (ChE) trong máu.

  • Phương pháp kiểm tra bằng giấy.

Dùng hộp thuốc chE kiểm tra tốc độ nhanh (do viện nghiên cứu thuốc chống độc thuộc Học viện quân y quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc sản xuất), lấy một tò giấy xét nghiệm trong hộp ra, rồi lấy một giọt máu ở sát dái tai nhỏ lên giữa tờ giấy, sau đó lấy hai mảnh nhựa gấp hai đầu lại, kẹp cố định mảnh giấy mẫu lại đặt cặp nhiệt độ vào nách hoặc sát háng trong ông quần, 20 phút sau so sánh với màu sắc tiêu chuấn trong hộp, căn cứ vào độ đậm nhạt của màu sắc đê phán đoán sức hoạt động của men. Sức hoạt động chE trong máu của người bình thường là 80% trở lên, người bị ngộ độc thuốc sâu Phospho hữu cơ thì sức hoạt động chE trong máu giảm xuống ở các mức khác nhau.

  • Hộp kiểm nghiệm đơn giản dứt khoát.

Hộp kiểm tra Chline Esterase (AchE) là phương pháp do Tổ chức Y tế thế giới giới thiệu, biện pháp này đang được ứng dụng rộng rãi ở Trung Quốc. Trong hộp có đặt máy xét nghiêm và thuốc thử, nhưng hiện nay do giá thành tương đối đắt.

Ngộ độc muối Nitrite

Nhìn bề ngoài và thử mùi vị muối Nitrite giống như muối ăn. Một số đơn vị do quản lý không tốt đã bỏ nhầm muối này vào thịt chín, gây ra các vụ ngộ độc tập thể. Hoặc cũng có trường hợp do ăn phải các loại rau thối nát đã biến chất nên gây ra ngộ độc.

  • Phân tích định tính.

Lấy một giọt chất dịch kiểm nghiêm, cho phản ứng trên mặt đĩa sứ trắng, cho thêm 1 đến 2 giọt thuốc thử Grigsi, nếu như thấy có tồn tại muối Nitrite, dung dịch hiện rõ màu đỏ tía. Do trong không khí và nước uống có chứa chút ít Nitrite nên cũng có thể dùng biện pháp này để kiểm nghiêm. Do vậy cần đối chiếu ở khoảng trắng.

  • Phân tích định lượng.

Lấy 0,5 đến 1,0 ml mẫu máu đưa vào trong ống ly tâm, cho thêm 3.0 đến 6.0 ml dung dịch Sunfat kẽm (ZnSO4. 6H2O) 5% và 1,0 đến 2,0 ml nước cất, sau khi trộn đều, cho thêm 0,5 đến 1,0 ml dung dịch Hydrocide Natri 4%, lại trộn đều, cho vào tủ lạnh nửa giờ, cho quay ly tâm 5 phút (tốc độ 3000 vòng/phút). Tổng thể tích của mẫu máu lúc này là 5.0 đến 10.0 ml. Lấy 1.0 đến 2,0 ml dịch trong ở trên của mẫu phẩm đã ly tâm, cho thêm 1 ml dung dịch Sodium Sunfanilate, ngâm trong lạnh 5 phút, lại cho vào 1 ml Naphthyn Acid Acetic 0,5%, cuối cùng cho thêm nước cất vào tổng thể tích là 5.0 ml. Trộn đều, để trong phòng ấm nửa giờ, kiểm tra độ thu quang ở làn sóng 540 nm. Sau khi kiểm tra được nồng độ tương ứng trong đường cong tiêu chuẩn, tính ra hàm lượng Nitrite tách ra.

Pha chế ông tiêu chuẩn: Lấy 7 ông thử, lần lượt cho 0,025, 0.50, 1.0, 1.50, 2,0, 2.50 ml dung dịch tiêu chuẩn muối Nitrite (NO21μ/ml), dùng nước không quay ly tâm làm cho tổng thể tích dung dịch ở các ống đều là 3.0ml. Bước tiếp theo giống như ông mẫu, lại cho thêm 1.0ml dung dịch Amino-l-Napthalene Sulfonic Acid và 1.0 ml dung dịch Naphthalene… rồi kiểm nghiệm ở làn sóng 540 nm.

Ngộ độc Mêtylic

Mêtylic là loại nguyên liệu hợp chất hữu cơ trong công nghiệp, nguyên nhân chủ yếu khi ngộ độc Metylic là do uống phải rượu giả có chứa Mêtylic.

  • Phân tích định tính.

Lấy máu hoặc nước tiểu sau khi được chưng cất để phân tích. Lấy 5,0 đến 10 ml nước cất cho vào trong ống nghiêm to, cho thêm cùng khối lượng Acid Sunturic 10%, 0,5 đến 1,0 ml Kali Permanganate 5%, lắc mạnh, nếu thấy dung dịch có màu tím rọi mất đi rất nhanh, thì cho thêm một chút Kali Permanganate đến khi nào thấy màu tím duy trì được trong vài phút mà không bị mất đi, sau đó cho thêm lượng nhỏ Leucogen (hoặc muối Sunfat 5%), làm cho màu tím mất đi. Sau khi kiểm nghiệm 1 đến 2 ml mẫu Hydrocide đã xử lý cho thêm 1 ml dung dịch Hydrochliric acid benzo 2%, lại cho thêm 1 đến 2 giọt Kali fersicyanide (K3[Fe(CH)6]) 10% vài giọt Acid muối đặc, nếu có còn Metylic thì dung dịch hiện lên màu đỏ.

  • Phân tích định lượng.

Mêtylic là loại chất độc bay hơi độc, để nhanh chóng và xác định đúng Mêtylic là loại chất độc cần phân tích mẫu.

Ngộ độc thạch tín (Arsenic)

Hợp chất của thạch tín thường chứa chất độc, ngộ độc thạch tín thường thấy nhiều hơn. Do là loại bột trắng không có mùi vị, không thối, dễ lẫn lộn với bột mì hay bột sô-đa, nếu sơ ý, hoặc không bảo quản cẩn thận, ăn nhầm hoặc ô nhiễm vào thực phẩm thì có thể bị ngộ độc.

  • Phân tích định tính.

Lấy 5 đến 10 gam nguyên liệu kiểm nghiệm cho vào bình tam giác 150 ml, pha thêm 20ml nước như dạng nước cháo lại pha thêm 5ml acid muối đặc hoặc dung dịch Stannous chloricde hydrochloric acid (pha chê Stannous chlride hydrochloric acid: lấy dung dịch Stannous hoà vào trong 125 ml hydrochloric acid đặc là được, lắc đều, để vào miếng đồng đã rửa sạch đun sủi trong 30 đến 50 phút, đồng thời quan sát sự thay đổi màu sắc của miếng đồng. Nếu như miếng đồng chuyển màu đen hoặc àu xám đen, điều đó cho thấy có thể có Arsenic, nếu như từ đầu đến cuối mà không thấy thay đổi màu sắc, thường thì có thể phủ định không có Arsenic tồn tại. Khi phân tích cần làm các xét nghiệm đối chiếu.

  • Phân tích định lượng.

Nếu điều kiện cho phép, có thể kiểm tra hàm lượng Arsenic bằng dụng cụ quang phổ thay silver tormate bằng disulfide diethyl- tricphy alcohol hoặc bằng cách hấp thu quang phổ ngọn lửa nguyên tử. Giá trị tham khảo bình thường về niệu Arsenic < 1,17 pmol/L (< 0.088 mg/M)).

Ngộ độc thủy ngân

Trong cuộc sống đời thường rất hiếm gặp phải các ca ngộ độc thủy ngân không phải do nghề nghiệp; các đơn thuốc dân gian sử dụng hợp chất có thủy ngân thường gây ngộ độc.

  • Phân tích định tính.

Xem ở phần cách thử ngộ độc thạch tín bằng miếng đồng, nếu thấy còn thủy ngân thì miếng đồng biến thành màu trắng bạc.

  • Phân tích định lượng.

Dùng các chia ánh sáng quang độ để phân tích lợi dụng nguyên lý thủy ngân trong Acid và hợp chất màu da cam. Sau khi tác dụng với nhau sẽ có màu sáng, căn cứ vào màu sắc đậm nhạt để so sánh định lượng. Cũng có thể dùng biện pháp nguyên tử lạnh hấp thụ quang phổ, tức dùng máy đo thủy ngân để khảo sát định lượng.

Giá trị tham khảo bình thường

Lượng thủy ngân trong nước tiểu thường <0,05 pmol/l(dùng cách chia ánh sáng quang đỏ Diacitic.

Thuỷ ngân trong nước tiểu <0,25 pmol/L

Ngộ độc chì

Bằng cách thô sơ để luyện kẽm hoặc chì hóa, có thể có khí chì bốc hơi ở nồng độ cao và gây ô nhiễm môi trường. Lâu nay việc sử dụng các âu có chứa chì đựng thực phẩm hoặc rượu nóng có Acid, việc uống nhầm các hợp chất có chì hoặc sử dụng các đơn thuốc dân gian có chứa chì đều có thể gây ngộ độc chì.

  • Phân tích định tính.

Lấy một giọt dịch mẫu, nhỏ lên một tờ giấy thử acit màu đỏ hồng, cho thêm 1 giọt 0,1 mol Hydrochloric Acid. Nếu có chì thì xuất hiện các đám nhỏ màu tím thì đã bị nhiễm chì. Giới hạn kiểm tra là 10 pmg.

  • Phân tích định lượng.

Dùng cách chiếu ánh sáng quang độ Diacitic để phân tích. Do chất Diacitic có thể phản ứng với nhiều kim loại, sẽ sinh ra nhiều loại hợp chất, khi chưa biết loại kim loại nào hoặc có các loại hỗn hợp, dùng cách phân tích này là tương đối khó khăn. Lúc đó cần tham khảo thêm cách hấp thu nguyên tử. Lượng chì trong nước tiểu thường nhỏ hơn 0,386 pmol/1 (cách Diacitic). Lượng chì trong máu thường nhỏ hơn 1,93 p.mol/1.

Ngộ độc thuốc Natri diệt chuột

Thuốc Natri diệt chuột là loại thuốc diệt chuột mới chống đông máu, các cháu nhi đồng thường ăn nhầm phải là bị ngộ độc.

  • Phân tích định tính.

Rút Etylic từ loại bột thuốc khả nghi hoặc cho một giọt dịch còn sót lại lên giấy lọc hoặc một tấm nhựa silic. Pha thêm dung dịch Etylic Ferric Chloride 1%, nếu có chất Natri diệt chuột, thì sẽ hiện rõ các đám màu đỏ gạch, độ nhậy cảm có thể đạt lpg.

  • Phân tích định lượng.

Lấy máu rồi trực tiếp rút Ethyl Acetate, sau khi trích từ Ethyl Acetate được Caustic Soda 1% và rửa bằng nước cất thì Ethyl Acetate bay đi, lấy chất cặn ra phân tích, tiến hành đồng thời với ống tiêu chuẩn.

Pha ống tiêu chuẩn: Pha chế 25 pg/ml dung dịch tiêu chuẩn Sodium ethylate cho vào 9 ống 10 ml để so sánh màu sắc, lần lượt chứa dung dịch tiêu chuẩn 1.0, 2.0, 3.0, 4.0, 5.0, 6.0, 7.0, 8.0 ml, sau đó pha thêm Ethyl vào từng ống đến 10 ml, mỗi ống pha 0,5 ml dung dịch Ethyl Ferric Chloride 1% vào 0,20 ml acid Sulíur 40%, lắc đều, để 5 phút. Sau đó dùng quang độ kế ở làn sóng 485 nm để đo hấp thu quang độ, căn cứ vào đường cong tiêu chuẩn để tính toán hàm lượng chất Natri Sodium diệt chuột.

Ngộ độc Stabilyty (Diazepam)

Diazepam (Stabyty) là loại thuốc an thần không phải như Barbital, khi uống quá liều sẽ gây ngộ độc.

  • Phân tích định tính.

Cho chất cặn bã đã xét nghiệm vào chất thử Bismuth Subiodide lắng hiện lên màu da cam. Cũng có thể sau khi hòa cặn bã với dung dịch Acid Sulfua đặc rồi để ở dưới tia tử ngoại có thể hiện rõ huỳnh quang màu vàng lục.

  • Phân tích định lượng.

Chất Diazepam và các chất chuyển hóa trong cơ thể phân tích từng lớp mỏng. Xét nghiệm ánh sáng hồng ngoại, ánh sáng tử ngoại màu sắc không khí.

0/50 ratings
Bình luận đóng