Nhận định chung
Trẻ càng nhỏ, sự phân chia của cây phế quản càng ít, lòng phế quản càng dễ hẹp và co thắt biến dạng.
Thành phế quản mềm, khẩu kính không phải hình trụ tròn mà đường kính trước sau nhỏ hơn đường kính ngang.
Bề mặt phế quản trẻ em trơn nhẵn, ít có sự cản trở, nên dị vật dễ rơi sâu vào phế quản thùy hay phế quản phân thùy.
Di vật mắc ở hạ thanh môn do buồng Morgagni hẹp, dễ gây tử vong đột ngột.
Hay gặp dị vật đường thở ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo (6 tháng đến 5 tuổi). 80% dị vật là các vật dụng nhỏ, đồ chơi và thức ăn. 60% dị vật có bản chất thực vật.
Phác đồ điều trị dị vật đường thở ở trẻ em
Giai đoạn cấp cứu ban đầu
Thường không ở đơn vị chuyên khoa và không đủ dụng cụ, thường can thiệp khi bệnh nhân đe dọa tử vong do ngạt thở cấp. Áp dụng ngay kỹ thuật Heimlich: Đứng, nằm ấn vào thượng vị tạo áp lực tăng đột ngột, dồn nén hơi trong phổi đẩy bật ra. Hoặc dùng ngay kim 13 chọc qua màng giáp nhẫn để mở thông tắt đường thở dưới dị vật.
Giai đoạn cấp cứu chuyên khoa
Soi thanh khí phế quản + tiền mê + tê tại chỗ.
Soi thanh khí phế quản + mê nội khí quản + giãn cơ + thở máy.
Nếu dị vật thanh quản:
Không mở khí quản: Dùng Mac Intosh. Dùng ống Chevalier – Jackson soi: Lấy pince gắp dị vật luôn ở tư thế nằm ngang đối với dị vật mảnh dẹt mở pince theo kiểu trước sau đối với dị vật tròn.
Mở khí quản: Trước khi gắp, nên bịt ống canuyl để thanh môn mở ra, nhìn thấy dị vật rồi luồn pince vào gắp. Nếu không gắp được dị vật, phải dùng ống soi phế quản lách qua thanh môn để lấy dị vật.
Nếu dị vật phế quản:
Dị vật khí phế quản còn sớm: Khi không gây mê, soi thực quản rồi gắp qua thanh môn vì dị vật thường còn di động.
Dị vật khí phế quản muộn hoặc cố định:
Bước 1: Tìm dị vật.
Bước 2: Lấy dị vật Đối với dị vật khí phế quản có mở khí quản, phải soi từ thanh quản xuống phế quản.
Bệnh nhân cần được theo dõi thường xuyên nồng độ oxy qua da, mạch, huyết áp… Bệnh nhân cần nhịn ăn sau khi soi phế quản 2 – 3 giờ, cho đến khi bệnh nhân nuốt dễ dàng, không bị sặc. Khi ăn, cho bệnh nhân ăn từ lỏng đến đặc.