Tên khác: thoái hoá gan-nhân bèo tiến triển.
Định nghĩa
Bệnh di truyền do giảm bài tiết nguyên tố đồng khỏi cơ thể, làm cho nguyên tố này tích tụ trong các cơ quan như gan, não, và các cơ quan khác nữa. Bệnh biểu hiện bởi cứng cơ toàn thân, rối loạn lời nói (loạn ngôn ngữ), run và xơ gan.
Căn nguyên
Bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu lặn. Gen bất thường nằm ở trên nhiễm sắc thể 13; có khoảng 20 kiểu biến dị khác nhau của gen này đã được phát hiện. Ngay từ khi mowsi sinh, hàm lượng ceruloplasmin trong máu của trẻ bị bệnh đã giảm, dẫn tới tích tụ nguyên tố đồng trong gan, rồi sau đó khi gan đã bão hoà nguyên tố đồng thì nguyên tố này tích tụ trong não. Hàm lượng trong huyết thanh của đồng tăng từ 10 tới 20 lần so với giá trị bình thường. Bài tiết đồng theo nước tiểu tăng lên (chứng tăng đồng-niệu).
Giải phẫu bệnh
Thoái hoá tế bào thần kinh ở những nhân bèo (một trong những nhân xám dưới vỏ đại não, hoặc còn gọi là nhân xám trung ương) của não, nhất là ở nhân bèo sẫm và ở nhân bèo nhạt với mức độ kém hơn. Lắng đọng chất đồng ở trong não, trong gan, trong da (có màu xám nhạt) và trong giác mạc. Sinh thiết gan có thể thấy hình ảnh thoái hoá mỡ. Xơ gan nốt to (các tổn thương xơ hoá có hình những cục hoặc nốt rất to) thường tiềm tàng và được phát hiện khi mổ tử thi.
Triệu chứng
DẤU HIỆU THẦN KINH: bệnh khởi phát ở trẻ em vào lúc 6 tuổi bởi những rối loạn tâm thần, cứng cơ (những động tác chủ động bị hãm lại bởi động tác quá mức của các cơ đối vận), run lúc nghỉ hoặc run cố ý và cười co cứng vì tăng trương lực các cơ bám da mặt, xúc cảm không bền vững. Có những động tác tự động kiểu múa vờn (chậm chạp) hoặc múa giật (nhanh). Bệnh nhân hay bị run hữu ý và rối loạn lòi nói (loạn ngôn ngữ). Tất cả những triệu chứng vừa nêu trên đều do hệ thống thần kinh ngoại tháp bị tổn thương, trong khi hệ tháp và các cảm giác đều bình thường.
DẤU HIỆU GAN: bệnh có thể biểu hiện bởi viêm gan mạn tính hoạt động, xơ gan, hoặc hay gặp nhất là gan to không triệu chứng.
VÒNG KAYSER-FLEISCHER: do lắng đọng chất đồng màu xanh nhạt hoặc nâu nhạt thành một vòng xung quanh kết mạc, giữa kết và giác mạc mắt. Hiếm thấy bệnh nhân bị đục nhân mắt (đục thuỷ tinh thể).
CƠN TAN HUYẾT CẤP TÍNH: có thể xảy ra. Nguyên nhân là do độc tính của chất đồng tác động lên màng của hồng cầu.
THỂ BÙNG PHÁT: Vàng da, suy tế bào gan cấp tính.
Xét nghiệm cận lâm sàng
- Giảm ceruloplasmin huyết thanh (< 200 mg/1).
- Tăng hàm lượng đồng trong nước tiểu (> 100 pg trong 24 giò).
- Tăng hàm lượng đồng trong huyết thanh.
- Tăng enzym transaminase thường xuyên.
- Chọc sinh thiết gan: tăng lượng đồng trong mô gan (> 250 pg/g mô gan sấy khô).
- Điều tra gia đình: định lượng ceruloplasmin huyết thanh và chọc sinh thiết gan để phát hiện và điều trị những thể không có biểu hiện triệu chứng.
Tiên lượng
Nếu không điều trị thì thường bệnh trở nên nguy kịch trước tuổi 30.
Điều trị
Cho các chất tạo phức với đồng, đặc biệt là penicillamin uống với liều trung bình 0,5 g hai lần mỗi ngày, cộng thêm 25 mg vitamin B6 (pyridoxin) mỗi ngày. Bệnh nhân phải tiếp tục điều trị suốt đời. Theo dõi huyết đồ (vì nguy cơ giảm tiểu cầu), và nước tiểu (để phát hiện sớm hội chứng thận hư). (Về chi tiết của những hiệu quả không mong muốn, xem: penicillamin).
Ghép gan được chỉ định khi bệnh gan tiến triển, dù đã điều trị thuốc như trên, và trong những thể bùng phát khi phải phòng ngừa hậu quả nguy kịch.
Đối với những thể dị hợp tử không triệu chứng thì không cần điều trị.
GHI CHÚ: Bệnh giả xơ cứng Westphal-Strümpell là một thể thoái hoá gan-nhân bèo trong đó những biểu hiện lâm sàng nổi trội là những động tác múa vờn nhưng không cứng cơ.