TÊN KHÁC: somatotropin, somathormon, hormon hướng thân, somatostimulin. Viết tắt theo từ tiếng Anh: GH (Grovvth Hormone).

NGUÔN GỐC: tế bào ưa acid của thuỳ trước tuyến yên.

TÁC DỤNG VÀ ĐIỀU HOÀ

  • Kích thích sự tăng trưởng của xương, của mô liên kết, và của các tạng. Hormon tăng trưởng tác động qua những chất trung gian gọi là somatomedin, tức là các peptid được tổng hợp ở gan và thận. Hormon tăng trưởng tác động tới những thụ thể (receptor) đặc hiệu nằm ở bề mặt các tế bào đích. Trong chứng lùn Laron, hormon tăng trưởng vẫn được bài tiết bình thường, nhưng những thụ thể này lại không tiếp nhận hormon.
  • Kích thích sự tổng hợp protein và acid nucleic, giữ nitơ và giảm bài tiết urê. Kích thích hoạt động tiêu lipid (huy động chất mỡ từ mô mỡ ngoại vi), làm tăng hấp thu calci (với xu hướng tăng calci niệu và tăng phospho huyết). Sử dụng hormon tăng trưởng kéo dài có thể gây ra tình trạng kháng insulin và xu hướng tăng đường huyết (gọi là tác dụng sinh đái tháo đường).
  • Cho levodopa, vasopressin, hoặc glucagon có tác dụng kích thích bài tiết hormon tăng trưởng, ngược lại corticoid có tác dụng kìm hãm bài tiết hormon này. Somatostatin (SRIF) kìm hãm những kích thích bình thường làm giải phóng hormon tăng trưởng, trong khi somatocrinin (GRF) lại kích thích giải phóng hormon này.

GIẢM BÀI TIẾT, xem: nhược năng tuyến yên, đặc biệt nhược năng tuyến yên trước dậy thì với chứng lùn “cân đối” (hội chứng Lorain-Levi).

TĂNG BÀI TIẾT: nếu xảy ra sau tuổi dậy thì, thì gây ra chứng to các cực, xảy ra trước tuổi dậy thì, sẽ dẫn tới chứng khổng lồ do tuyến yên.

Hàm lượng hormon tăng trưởng trong huyết tương: bình thường là 1-5 μg/ml (μg/l). Hàm lượng hormon thấp tự phát không có nghĩa là giảm bài tiết (phải làm test kích thích để xác định). Đỉnh bài tiết từng lúc có thể khởi động do giấc ngủ sâu, do hoạt động thể lực, do stress, do ăn nhiều protid, hoặc do nhịn đói lâu ngày.

HÀM LƯỢNG SOMATOMEDIN C HOẶC IGF-1 (“tiếng Anh: Insulin-like Growth Factor – yếu tố tăng trưởng giống insulin): bình thường là 90-260 ng/ml (pg/1). Hàm lượng của yếu tố này biến động song song với hàm lượng của hormon tăng trưởng. Ở những người lùn mà chức năng tuyến yên vẫn bình thường, thì rối loạn về sự phát triển là có liên quan tới thiếu hụt somatomedin C.

THỬ NGHIỆM (TEST) KÌM HÃM (trong trường hợp tăng bài tiết): định lượng hormon tăng trưởng sau khi cho uống đường glucose (75 g). Trong chứng to các cực thì hàm lượng vẫn cao hơn 5 ng/ml.

THỬ NGHIỆM (TEST) KÍCH THÍCH (trong trường hợp giảm bài tiết):

Truyền tĩnh mạch dung dịch arginin chlorhydrat (0,5 g /kg cân nặng cơ thể trong vòng 30 phút) hoặc ornithin chlorhydrat (liều lượng cũng như với arginin): bình thường sau khi kích thích, hàm lượng hormon tăng trưởng sẽ vượt quá 10 ng/ml (pg/1); trong trường hợp giảm bài tiết thì hàm lượng hormon này vẫn ở dưới 5 ng/ml.

Cho levodopa (10 mg/kg ở trẻ em và 0,5g ở người lớn theo đường uống).

Test dung nạp insulin(hoặc test giảm đường huyết do insulin): tiêm insulin 0,1 đơn vị quốc tế/kg cân nặng cơ thể, thường theo đường tĩnh mạch, rồi đo đường huyết cứ 10 phút một lần tới 90 phút sau khi tiêm. Bình thường, đường huyết sẽ giảm ít nhất 50% hoặc xuống tới giá trị thấp hơn 2,3 mmol/1 hoặc 0,5 g/l. cần thận trọng nếu nghi ngờ nhược năng tuyến yên toàn phần.

Test với somatocrinin (GRF):tiêm somatocrinin (GRF), 2 μg/kg sẽ gây ra tăng hàm lượng cơ bản của hormon tăng trưởng vào phút thứ 40, mức tăng này rõ nét hơn ở những đối tượng trẻ, đối tượng béo phì hoặc tăng đường huyết. Mức tăng thấp hơn 5 μg/l là dấu hiệu của giảm yếu tố hướng thân (hormon tăng trưởng). Mức tăng rất cao xảy ra ở trường hợp chứng to các cực. Mức tăng nhẹ thấy trong 90% số trường hợp giảm năng tuyến yên. Mức bình thường (không tăng) trong trường hợp chứng lùn do tuyến yên.

CÁC TEST GIÁN TIẾP: tăng phospho huyết trong trường hợp tăng bài tiết hormon tăng trưởng.

0/50 ratings
Bình luận đóng