Nhiều khối u trong hốc mắt hoặc trong sọ có thể gây tổn thương bởi sự chèn ép trực tiếp các sợi thần kinh thị giác, thoạt tiên ở trung tâm, sau đó đến chu biên và gây ra giảm thị lực dẫn đến mù.
Mục lục
1. Hội chứng đỉnh hốc mắt
Thể hiện bởi một tổn thương thị thần kinh phối hợp với các thành phần trong khe bướm là các dây III, IV, VI và nhánh của dây V.
Triệu chứng: giảm thị lực từ từ dẫn đến mù. Liệt cơ vận nhãn cả ngoại lai và nội tại. Giảm cảm giác mi, mũi, trán. Mất cảm giác giác mạc. Có thể lồi mắt.
Nguyên nhân sinh bệnh: có thể là u máu, u bạch huyết, u nguyên bào lympho, u vùng sọ hầu di căn…
2. Hội chứng giao thoa thị giác
Thường thể hiện một bán manh hai thái dương và ở góc phần tư trên do chèn ép dưới giao thoa và bán manh hai thái dương góc phần tư dưới do chèn ép trên giao thoa.
Nếu bị chèn ép một phía, có thể thấy teo thị thần kinh một bên và bán manh phía thái dương bên kia.
Khi bệnh tiến triển nặng thì tổn thương thị trường thường đa dạng.
Sinh bệnh học: có thể gặp trong bệnh lý khối u và chấn thương.
Thường gặp nhất là u tuyến yên.
U tế bào ưa acid (éosinophil) gây bệnh cảnh to đầu chi.
U tế bào không bắt màu (thuỳ trước tuyến yên) thường là u prolactin thể hiện lâm sàng là hội chứng vô kinh tiết sữa. Có thể u tế bào sắc tố… thời gian sau có hội chứng suy tuyến yên toàn bộ với tổn thương tuyến giáp và tuyến thượng thận.
Chẩn đoán xác định bằng chụp XQ sẽ thấy hố yên giãn rộng, tiêu xương hố yên.
Ngoài u tuyến yên còn có thể gặp các u màng não lao, u sọ hầu, phình mạch cảnh trong. Hiếm hơn là u của xoang sàng hoặc u xương nguyên phát.
3. Tổn thương dải thị giác
Thường do nguyên nhân mạch máu và u.
Triệu chứng khởi đầu đột ngột và tiến triển nhanh nếu là nguyên nhân mạch máu, gây liệt nửa người với giảm cảm giác cùng bên.
— Hội chứng bán manh đồng danh cùng bên với tổn thương hoàng điểm. Không có mất ngôn ngữ nếu tổn thương ở bên trái. Nếu nguyên nhân là do u, các triệu chứng trên sẽ phát triển từ từ.
— Tổn thương tia thị giác:
+ Hội chứng Sylvius: tổn thương vận động và cảm giác. Mất ngôn ngữ, bán manh.
+ Hội chứng Gerstmann: mất thị giác (apraxie), mất nhận thức ngón tay (agnosie digital) – không thể giơ ngón tay mà người ta yêu cầu, không thể sử dụng ngón tay theo lệnh người khác, không đếm được, không viết được, không phân biệt được bên phải, bên trái.
Kèm theo bán manh góc phần tư trên hoặc bán manh đồng danh.
4. Hội chứng não sau
Thể hiện một bán manh cùng bên đơn độc hoặc phối hợp với dấu hiệu tổn thương thân não. Đặc biệt là hội chứng đồi thị: bệnh nhân chỉ nhìn được bằng vùng hoàng điểm với thị trường hình ống.
Khi tổn thương lan rộng đến não sau, có thể thấy bệnh cảnh mù vỏ não, hoặc loạn ảo giác. Cơn động kinh hoặc rối loạn ý thức.
5. Hội chứng Foster – Kennedy: được mô tả từ 1911
Hình ảnh lâm sàng: teo thị thần kinh nguyên phát do chèn ép trực tiếp một bên và phù đĩa thị mắt bên kia do tăng áp lực nội sọ. Mất khứu giác cùng phía do tổn thương dây thần kinh khứu giác.
Thị trường: có ám điểm trung tâm.
Nguyên nhân sinh bệnh thường do u màng não ở cánh xương bướm, u gần hố yên, u thuỳ trán – não, u vùng chẩm. Ngoài ra còn có thể có các nguyên nhân khác như xơ cứng động mạch, viêm màng nhện giao thoa, phình mạch cảnh, chấn thương hoặc các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh hệ thống …