CÂU HỎI
Bệnh nhân nữ, 65 tuổi, vào viện vì tụt huyết áp và đau ngực. Cơn đau khởi phát từ cách đây 1 tháng, thường làm thức giấc. Nôn 2 lần, chóng mặt và đau đầu. Tình trạng lúc nhập viện là huyết áp 80/40mmHg, mạch 64l/p, cô rất lo lắng, và nôn 1 lần nữa. Phổi nghe rõ, không rale, mạch yếu. ECG thấy ST chênh lên ở II, III aVL, ST chênh xuống ở V1,V2. Nhịp xoang, có ngoại tâm thu thất. XQ ngực bình thường. Thất phải và thất trái giãn trên siêu âm tim. Điều trị tốt nhất tụt huyết áp ở bệnh nhân này là?
A. Đặt bóng động mạch chủ.
B. Dobutamine, 5 µg/kg /p.
C. Dopamine, 5 µg/kg /p.
D. NaCl 0,9% truyền tĩnh mạch 500ml.
E. Đặt máy tạo nhịp qua da.
TRẢ LỜI
Bệnh nhân này có nhồi máu cơ tim thất phải, biểu hiện lâm sàng thường gặp là tụt huyết áp, áp lực đổ đầy tim phải tăng, không có dấu hiệu ứ huyết phổi, có bằng chứng của giãn thất phải và rối loạn chức năng thất phải. Hầu hết trong các trường hợp nhồi máu thất phải, động mạch bị tắc là động mạch vành phải, và ST chênh lên ở các chuyển đạo II, III, aVF. Khi nhồi máu thất phải xảy ra, ST chênh xuống hay gặp ở V1,2. ECG bên tim phải có VR4 có ST chênh. Điều trị đầu tiên ở bệnh nhân nhồi máu thất phải là truyền tĩnh mạch để nâng áp lực tĩnh mạch trung tâm lên 10 – 15cm mmHg. Nếu không nâng được huyết áp lên thì có thể dùng thuốc co mạch hoặc đặt bóng động mạch chủ.
Tuy nhiên khi truyền dịch không để thừa, gây ra hiện tượng đẩy vách liên thất sang trái và làm giảm cung lượng tim. Máy tạo nhịp qua tĩnh mạch có thể có ích nếu tụt huyết áp liên quan đến block tim hay nhịp chậm, và có thể liên quan đến thiếu máu mạch vành phải.
Đáp án: D.