Có nhiều phương pháp đánh giá chức năng nội mạc, mỗi phương pháp dựa trên những cơ sở khoa học khác nhau.
Phương pháp xét nghiệm sinh hoá gián tiếp
Phương pháp đánh giá chức năng nội mạc dựa vào các chỉ số sinh hoá không phải là phương pháp được dùng rộng rãi vì các chỉ tiêu sinh hoá không ổn định, các sản phẩm của nội mạc có thời gian bán huỷ rất ngắn.
Cho tới nay chức năng nội mạc thường được đánh giá bằng cách định lượng NO hoặc PGI2 trong huyết tương. Nồng độ nitrat trong nước tiểu 24 giờ được xem như dấu ấn của sự tiết NO trong suốt thời gian đó. Tuy nhiên, giá trị của phương pháp này phụ thuộc nhiều điều kiện (ví dụ như: người bệnh cần phải có một chế độ ăn chuẩn và không có chấn thương hoặc nhiễm trùng trước đó). Nhược điểm của phương pháp là không thể nhận biết được nguồn gốc của NO (nội mạc, thần kinh,…) hoặc dạng đồng phân của NOS. Định lượng cGMP hoặc endothelin 1 trong máu hoặc trong nước tiểu cũng có những hạn chế tương tự. Do đó, các chỉ số này không thể được xem như dấu ấn đặc trưng cho hoạt động của nội mạc.
Định lượng các phân tử bám dính (E-selectin, VCAM-1, ICAM-1) trong máu có thể cung cấp một chỉ số gián tiếp cho hoạt động của nội mạc trong nghiên cứu lâm sàng cũng như điều tra dịch tễ. Định lượng yêu tố vWF (von Willebrand) và t-PA (tissue – type plasminogen activator) có thể phản ánh tình trạng tổn thương mạch máu.
Những phương pháp đánh giá trực tiếp
Các phương pháp này xác định sự thay đổi của đường kính động mạch (bằng máy siêu âm) hoặc thể tích dòng chảy (bằng máy đo thể tích), từ đó đánh giá mức độ co hoặc giãn của động mạch.
Ví dụ người ta tiêm trực tiếp vào động mạch vành một số chất gây co hoặc giãn mạch như L-arginin hoặc serotonin, acetylcholin, bradykinin, chất P, L-argynin là yếu tố ức chế đặc biệt NOS nội mạc, do đó nó ức chế sự sản xuất NO của tế bào nội mạc. Vì vậy, L-arginin ức chế sự giãn mạch gây nên bởi nội mạc và sự co mạch sau khi tiêm L-argynin sẽ phản ánh gián tiếp chức năng nội mạc trước đó.
Acetylcholin là một chất trung gian hoá học được sử dụng trong một thời gian dài để đánh giá chức năng nội mạc động mạch vành. Acetylcholin gây giãn mạch và tăng tốc độ dòng chảy ở người bình thường. Ngược lại, ở người có bệnh động mạch vành acetylcholin gây co mạch nghịch thường và giảm tốc độ dòng chảy.
Các chất là acetylcholin, bradykinin, chất p gây giãn mạch thông qua những receptor đặc hiệu khác nhau. Chức năng nội mạc được đánh giá dựa vào khả năng giãn mạch.
Các phương pháp này có nhiều hạn chế vì phương pháp thăm dò chảy máu, kỹ thuật phức tạp và khó có thể lặp lại trên cùng một bệnh nhân.
- Phương pháp thăm dò không xâm nhập:
Trong phương pháp này, người ta sử dụng các tác nhân vật lý hoặc hoá học để kích thích tế bào nội mạc giải phóng các yếu tố giãn mạch. Dựa vào khả năng giãn mạch để đánh giá chức năng tế bào nội mạc. Có hai phương pháp chính :
- Đo đáp ứng giãn mạch qua trung gian dòng chảy.
- Chụp cắt lớp bằng phát xạ positron (PET): Đổ đánh giá chất lượng của dòng chảy trong động mạch vành và các hoạt động chuyển hóa của cơ tim. Dự trữ động mạch vành được đánh giá dựa trên dòng chảy cơ sở và dòng chảy khi gây giãn mạch. Sự giãn mạch qua trung gian dòng chảy này cho phép đánh giá chức năng nội mạc.
Đây là kỹ thuật không xâm nhập và có thể lặp lại trên cùng một đối tượng, trong những thời gian khác nhau. Tuy nhiên, giá thành rất cao. Vì vậy, sự phát triển của phương pháp cũng bị giới hạn.