Định nghĩa
Tắc một mạch máu do những bọt khí di chuyển tới.
Căn nguyên
- Giảm khí nén: nghẽn động mạch do bọt khí thường hay xảy ra trong trường hợp giảm áp suất đột ngột khi những thợ lặn sử dụng máy tự động từ độ sâu dưới nước trở lên mặt nước quá nhanh (xem: bệnh giảm khí nén).
Khi thợ lặn ngoi lên mặt nước đồng thời ngừng thở (thanh môn khép kín), không khí không ra được khỏi phổi sẽ bị nhốt kín trong các phế nang, và giãn nở ra trong quá trình lên nông dần. Vì không khí thở vào không tự do thoát ra ngoài được, nên làm cho phổi giãn mạnh và làm tăng áp suất trong các phế nang. Lúc đó khí sẽ lọt vào trong máu ở các tĩnh mạch phổi, và từ đây về tim, rồi bọt khí sẽ theo các động mạch cảnh vào các động mạch não, ở đây làm cho nghẽn mạch với hậu quả là đối tượng bị bất tỉnh (mất tri giác) đột ngột, có hoặc không kèm theo co giật.
- Truyền máu: nếu để không khí lọt vào tĩnh mạch trong khi truyền máu thì bọt khí sẽ hình thành trong buồng tim và làm cho tim bơm máu không hiệu quả nhất thời. Tai biến này có thể xảy ra khi thay ống truyền hoặc khi truyền máu dưới áp suất của máu đựng trong chai.
– Những nguyên nhân khác: gây tràn khí màng phổi hoặc tràn khí màng bụng chủ ý, chọc dò xoang hơi, sinh thiết phổi, thông động mạch, truyền dịch, làm thẩm phân thận, nạo tử cung. Hãn hữu trong phẫu thuật tim không khí cũng có thể lọt vào tĩnh mạch phổi.
Triệu chứng
Bất tỉnh (mất tri giác) đột ngột ở một thợ lặn trong khi ngoi lên mặt nước hoặc sau khi lên khỏi mặt nước. Cũng có thể xảy ra co giật, liệt nhẹ nửa người. Phổi giãn có thể kèm theo tràn khí trung thất (khí thũng trung thất) hoặc khí thũng dưới da, hoặc tràn khí màng phổi nhưng hiếm hơn.
Điều trị
Liệu pháp oxy thở qua mặt nạ và hồi sức tim-hô hấp trong khi chờ đợi đưa bệnh nhân cấp cứu tối một trung tâm tăng áp suất (có buồng khí nén) chuyên sâu.