Giun chui ống mật là một bệnh cấp cứu ngoại khoa, thuộc phạm vi chứng “hồi quyết” của Đông y. Đa số trường hợp bệnh được chữa có kết quả bằng thuốc và châm cứu, một số ít các trường hợp bội nhiễm phải dùng thủ thuật ngoại khoa.
Triệu chứng: người bệnh thường đau dữ dội vùng hạ sườn phải hay vùng thượng vị; đau lăn lộn không nằm yên có động tác chổng mông lên trời. Lúc đầu nước da thường trắng bệch, toàn thân lạnh toát mồ hôi, chân tay lạnh, buồn nôn, nếu bị bội nhiễm có thể sốt cao, miệng đắng, vàng da, lưỡi đỏ, mạch huyền sác.
Phương pháp chữa: thường lấy an hồi chỉ thống làm chính. Thường các vị thuốc được sử dụng có vị chua, cay và đắng (chua cay làm giun yên tĩnh, đắng làm giun đi xuống).
Bài thuốc:
Bài 1:
Vôi tôi 500g Đường kính 50g
Nước sôi để nguội 2 lít
Vôi tôi và nước sôi để nguội trộn đều để lắng lấy nước trong, mỗi lít nước vôi tôi được hoà tan 50g đường để uống.
Mỗi lần uống 50ml lúc lên cơn đau. Một ngày uống không quá 400ml. Tỷ lệ khỏi bệnh có thể tới 80 %. Thời gian chữa trung bình là 5 ngày.
Bài 2: Xuyên tiêu:
Xuyên tiêu phơi khô tán nhỏ rây thành bột mịn. từ 10 – 15 tuổi, mỗi lần uống 5g, mỗi ngày không quá 20g. Vì Xuyên tiêu nóng nên trẻ em có sốt phải dùng thêm thuốc giải nhiệt: Rau má, Lục nhất tán.
Bài 3: ô mai hoàn gia giảm (có thể dùng thang):
Ô mai 5 quả Phụ chế tử 8g
Hoàng liên 12g Quế chi 8g
Hoàng kì 12g Xuyên tiêu 8g
Đảng sâm 12g Can khương 8g
Đương quy 12g Tế tân lg
Nếu nôn mửa thêm Trần bì 8g, Bán hạ 8g.
Đau nhiều thêm Mộc hương 8g.
Táo bón thêm Mang tiêu 16g.
Vàng da thêm Nhân trần 40g.
Bài 4:
Ô mai 16g Mộc hương 8g
Sử quân tử 12g Chỉ thực 8g
Hạt cau 12g
Ngày uống một thang.
Châm cứu:
Châm tả các huyệt:
Huyệt chính: Túc tam lý, Chi câu, Dương lăng tuyền, Nghinh hương, Tứ bạch.
Gia giảm: đau nhiều : Lao cung, nôn mửa: Nội quan; sốt cao, Hợp cốc; táo bón: Phúc kết.
Nhĩchám:
Châm vị trí: Giao cảm, Thần môn, Túi mật, Gan.