Chẩn đoán lâm sàng lao màng bụng
Triệu chứng toàn thân
- Gầy sút cân, vã mồ hôi ban đêm, mệt mỏi kém ăn nhức đầu, sốt về chiều
- Đau bụng: đau một vùng hoặc khắp bụng hoặc đau mơ hồ
- Rối loạn tiêu hóa; táo lỏng, táo lỏng xen kẽ, chướng bụng đầy bụng có thể có dấu hiệu bán tắc.
- Cổ trướng toàn thể hoặc khu trú, gõ đục bàn cờ Dam hoặc sờ thấy đám dính, mảng dính hoặc giả u.
Cần thăm khám toàn thân để phát hiện lao phổi phối hợp, hoặc lao hạch… tìm hiểu tiền sử bản thân và gia đình về bệnh lao.
Tóm lại: Trong giai đoạn sớm bệnh khó phát hiện vì lâm sàng mờ nhạt, các triệu chứng nghèo nàn, còn ở giai đoạn cuối là sự quá phong phú ở những biểu hiện lâm sàng do bệnh đã làm tổn thương các cơ quan khác.
Chẩn đoán cận lâm sàng
1. Xét nghiệm thường quy:
– HC thường hơi giảm, BC thường trong giới hạn bình thưởng hoặc tăng, L tăng. VS thường tăng, tăng cao.
- Mantoux: Có thể (+), (-). Làm OT 1%, 1% ωPPD 10 UI
Trong lao màng bụng thường (+) yếu, Hoàng Gia Lợi – Bùi Xuân Tám (+) 28%
- Chiếu chụp XQ tim phổi: tìm tổn thương lao lao phổi, màng phổi, tràn dịch màng tim trong lao đa màng.
- Nếu có hạch ngoại biên thì chọc hạch, làm hạch đồ.
- Chọc dịch màng bụng: Rivalta (+), Albumin > 30gl
Lấy dịch màng bụng ly tâm: soi tươi tìm BK hoặc cấy, tiêm truyền cho chuột lang.
- Soi ổ bụng: các hạt lao như hạt kê trên phúc mạc thành và phúc mạc tạng, trắng đục, bóng sáng, rải rác hoặc tụ thành đám. Đám dính che lấp các tạng, dải dính ở hố chậu hoặc quai ruột với thành bụng. Xung huyết nhiều ở quai ruột và phúc mạc. Có dịch sánh vàng chanh. Phối hợp sinh thiết màng bụng hoặc hạch.
- Giải phẫu bệnh thấy các tế bào bán liên, tể bào khổng lồ, hoại tử bã đậu (Nếu không có điều kiện sinh thiết có thể chọc hút bằng kim nhỏ)
- Soi đờm và phân tìm BK
- XQ: Có một vài đặc điểm là có thể đưa tới ý nghĩa về lao ruột phối hợp: Triệu chứng Sterling (+) hoặc thấy ngắn đoạn ruột tịt, đại tràng lên có triệu chứng bệnh lý hình ảnh bóc những nếp niêm mạc với thành ruột, hẹp đoạn cuối hồi tràng kiểu loét (Chúng có nét chung với Crown: Xâm lấn từng vùng, tổn thương hồi manh tràng, có những vết loét có xu hướng tạo hẹp. XQ dạ dầy: Đôi khi như loét dạ dầy tá tràng. XQ ổ bụng không chuẩn bị chỉ có thể phát hiện triệu chứng của hẹp hoặc tắc hoặc dính mà thôi.
- Soi thực quản dạ dầy, trực tràng tìm các tổn thương lao các vết loét lớn, hình ôvan, hình nón bờ nổi rõ, hoặc giả Polipe.
Nghiên cứu siêu âm được áp dụng cho lao ổ bụng. Theo Vaculencô (1988): phần lành trên ống tiêu hóa bình thưởng siêu âm không phát hiện được. Khi có quá trình bệnh lý làm dầy thành dạ dầy hoặc ruột, sẽ thấy được các triệu chứng gọi là tổn thương cơ quan rỗng. Đó là những hình ảnh siêu âm dạng ôvan hoặc tròn, với vùng ngoại vi không nhiễm siêu âm và một tâm điểm nhiễm siêu âm. Vùng ngoại vi thể hiện những tổn thương bệnh lý của thành ruột, tâm siêu âm là nếp niêm mạc và chất dịch ruột. Nghiên cứu này cho phép xác định mặt cắt và độ dài của vùng tổn thương. Thường thấy ở HCF, hoặc ở dạ dầy. Hình ảnh rất bền vững tái lập nhiều lần và rất đặc thù. Ngoài ra còn thấy dịch đóng ngăn hoặc tự do, cá biệt thấy tăng kích thước hạch Linphô trong ổ bụng.
Phương pháp này áp dụng cho các bệnh nhân có bảng lâm sàng không rõ ràng mà có tiếp xúc với bệnh nhân lao hoặc đã bị lao, phương pháp này không có chống chỉ định và không gây tổn thương.
Chẩn đoán bằng điều trị thử: theo Bùi Xuân Tám 1989, Đỗ Đức Hiển trong tiêu chuẩn chẩn đoán lao có tiêu chuẩn điều trị thử: Bệnh nhân đáp ứng với hóa trị liệu chống lao, điều trị thử được coi là tiêu chuẩn cuối cùng. Theo Vaculencô 1988 sự phát hiện BK và những tổ chức hạt, là yếu tố để khẳng định chẩn đoán nhưng khi thiếu các thành phần này việc kết hợp các đặc thù lâm sàng, XQ, nội soi, siêu âm… vẫn chẩn đoán lao và cần điều trị thử. Theo các tác giả Anh thì nên tiến hành điều trị thử sớm, còn hơn là lao vào việc tìm kiếm chẩn đoán kéo dài, tất nhiên thuốc điều trị thử chỉ nên dùng INH, PZA, EMB. Vì lao càng xuất hiện ở nhiều bộ phận thì chẩn đoán càng khó.
2. Các xét nghiệm mới áp dụng trong chẩn đoán lao
Theo Nicon, Campbell và Zenkins (1995) thì không có Test huyết thanh đối với lao được như ý. Sở dĩ như vậy vì liên quan đến đáp ứng miễn dịch, đáp ứng này thay đổi do BK từ môi trưởng vào cơ thể và do tiêm chủng BCG… Tuy nhiên các kỹ thuật mới trong chẩn đoán lao vẫn được nghiên cứu sôi nổi.
Kỹ thuật ELISA (Enzyme linked Immuno Sorbent Assay) còn gọi là xét nghiệm miễn dịch gắn men: tìm kháng thể kháng lao trong huyết thanh bệnh nhân lao. Nguyên lý: KN + KT là phức hợp hòa tan không phát hiện được. Nếu cho kháng thể kháng kháng thể có gắn Enzyme vào nó tạo một phức hợp: KN + KT + KTKKT Enzyme. Nếu cho cơ chất vào thì Enzyme sẽ biến cơ chất thành một sản phẩm có màu và định lượng bằng quang phổ kế (Máy Eliza LP 400 đo trên sóng 405 nanomet của hãng Sanofi). Tính tỷ lệ % Agalactosyl/IgG dựa trên huyết thanh chuẩn làm tại Viện vệ sinh dịch tễ Hà nội. Kháng nguyên sản xuất ở Anh. ý nghĩa nó không chẩn đoán được nơi nào bị bệnh, nó giúp thày thuốc khẳng định hoặc loại trừ lao hoạt động ở người trưởng thành, giúp chẩn đoán phân biệt lao với ung thư hoặc bệnh hệ thống. Parkash và cộng sự 1994 dùng kháng nguyên PPĐ 298 làm xét nghiệm Eliza ở 25 bệnh nhân lao phổi, lao ngoài phổi, lao màng bụng, lao hạch, thấy xét nghiệm này ở bệnh nhân lao so với lô chứng khác nhau có ý nghĩa P < 0,001. Xét nghiệm này có ý nghĩa theo dõi chẩn đoán và theo dõi diều trị.
Kỹ thuật sinh học phân tử PCR test (1983) gọi là phản ứng chuỗi Polymeraza. Nguyên lý: BK vào cơ thể bị các kháng sinh diệt nhưng các phân tử ADN, ARN vẫn còn. Người ta dùng một đoạn thăm dò ADN để phát hiện các ADN đích của VK lao (ADN target) người ta phải phóng to các ADN để phát hiện ADN đặc trưng của lao trong máu hoặc dịch não tủy. ý nghĩa: phát hiện trực tiếp vi khuẩn lao, chẩn đoán nhanh, phát hiện phân tử kháng với kháng sinh. Sodiqui 1995 phát hiện 60% các trường hợp có BK ở trong máu. PCR (Polymeraza chain reation)
Hệ Bactec (kỹ thuật vi trùng học). Nguyên lý Cacbon phóng xạ gắn vào axit Palmitic và axít Focmic trong môi trường nuôi cấy vi trùng. Vi trùng lao sử dụng xít béo này CO2 thoát ra trong đó có Cacbon phóng xạ có thể đo được gọi là Radiometric method. Xét nghiệm này cho kết quả từ 7- 10 ngày và nhậy hơn nuôi cấy Zwoskakz 1994 trong 111 ca lao đã phát hiện 41,5% mà soi trực tiếp bỏ sót. Schonthaler 1994 trong 2036 bệnh phẩm cho kết quả cao gấp 2 lần so với cấy ở môi trường Loweinstein.
ADA test (Adenosine Deaminase Activity). Là xét nghiệm sinh hoá phát hiện mức độ tăng men trong các chất dịch: màng não, màng tim, màng phổi, màng bụng. Nguyên lý Adenosine biến đổi Adenosine thành Inosine.
Velayati 1994 với bệnh nhân lao màng bụng ADA trong dịch cổ trướng tăng lên 32 UI/l.
Tóm lại: chẩn đoán lao phải dựa vào lâm sàng và các xét nghiệm kết hợp với điều trị thử mới mong đạt được kết quả tốt, tránh bỏ sót trong những trường hợp chẩn đoán khó và phối hợp với nhiều bệnh. Chú ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh cảnh lâm sàng gần giống nó.