TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN

Vật chủ cuối cùng là người, mèo, chó và một số thú vật ăn thịt. Vật chủ trung gian đầu tiên là loài ốc Bethysia leachi; vật chủ trung gian thứ hai là loài cá nước ngọt (cá chép).

Người và súc vật ăn cá bị nhiễm sán, sau đó đào thải trứng sán ra ngoài cùng với phân. Khi trứng theo nước mưa vào sông hồ, thì mao ấu trùng từ trứng ra bị ốc nuốt phải. Trong cơ thể ốc, sau 2 tháng thì mao ấu trùng phát triển và sinh sản đầu tiên thành bào tử nang trong đó hình thành các redi, rồi phát triển thành tiền vĩ ấụ trùng. Tiền vĩ ấu trùng rời khỏi cơ thể cíc vào nước.

Ở đây, tiền vĩ ấu trùng tích cực xâm nhập qua da vào thân cá chép và khu trú ở bắp thịt; ở đây sau 24 giờ, chúng biến thành vĩ ấu trùng có bọc nang có khả năng làm nhiễm bệnh sau 6 tuần lễ, kể từ ngày cá bị nhiễm tiền vĩ ấu trùng.

Vĩ âu trùng có bọc nang chịu đựng tương đối ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Âu trùng sán chết khi đun sôi cá cắt thành từng khúc trong 20 phút và cá băm nhỏ sau 10 phút kể từ lúc sôi.

Khi muối cá, ấu trùng chết sau 3-4 ngày ở cá nhỏ (10-15g), và sau 10 ngày ở cá lớn. Khi hun khói nóng tất cả vĩ ấu trùng có bọc nang đều chết. Hun khói nguội, không bảm đảm giết chết ấu trùng, nhưng đa số ấu trùng sẽ chết nếu muối cá sơ bộ trước khi hun nguội.

Người, mèo, chó bị lây bệnh sán Opistorchis nếu ăn cá sông hoặc nấu chưa đủ chín, vẫn còn ấu trùng sống. Trong vật chủ cuối cùng, ấu trùng được giải phóng trong đường tiêu hoá sẽ đến gan, thận và tuỷ. Ở đó chúng phát triển đến giai đoạn trưởng thành về sinh dục sau 2 tuần lễ và sống trong nhiều năm.

Chẩn đoán bệnh sán Opistorchis bằng cách phát hiện trứng ở trong phân và trong chất chứa ở tá tràng, ở tá tràng có rất nhiều trứng, mặc dù cơ thể bị nhiễm nhẹ. Nguyên tắc của phương pháp xét nghiệm phân là làm cho phân (đã hoà loãng trong nước cất) phải phân lớp ra trong dung dịch muối Na clorua. Trứng sán lắng xuống đáy ống nghiệm và được phát hiện dễ dàng sau khi đã ly tâm.

Phản ứng dị ứng trên da không được áp dụng rộng rãi

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

Đặc điểm dịch tễ học và các biện pháp phòng bệnh đối với bệnh sán Opis­torchis giống như đối với bệnh sán Diphyllobothrium.

Dân chúng bị bệnh sán Opistorchis ở mức độ khác nhau tuỳ theo những điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại và sinh sản của vật chủ trung gian (ốc) và vật chủ bổ sung (cá). Tuỳ theo các điều kiện sinh hoạt, xã hội như tập quán chế biến và ăn cá của dân chúng (cá không đun kỹ, cá ướp ít muối), môi trường bên ngoài bị nhiễm phân người và phân súc vật. Bệnh sán này phổ biến ở Thái Lan, những trường hợp đặc biệt thấy ở Đông Dương.

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH

Cần phải phòng ngừa cho các sông hồ không bị nhiễm phân. Đặc biệt là không được thải phân tươi từ tẩu thuyền xuống nước.

Phải làm công tác giáo dục tuyên truyền vệ sinh trong dân chúng, làm cho họ nắm được các quy tắc phòng bệnh chung và phòng bệnh cá nhân, làm cho họ hiểu vai trò truyền bệnh của mèo, chó, của cá chế biến không kỹ. Cách diệt sán tốt nhất là muối cá, trong nước muối ấu trùng chết trong vòng 14 ngày (27- 29kg muối cho 1 tạ cá). Hàm lượng muối trong cá đã ướp xong phải là 14%. Phải muối như vậy rồi sẽ đem hun khói nguội hoặc phơi khô. Nếu rán cá, phải rán trong 20 phút.

Để tẩy sán Opistorchis, người ta dùng hexacloretan và antimon natri tartrat.

0/50 ratings
Bình luận đóng