Tên khác: bệnh nhiễm melitococcus, sốt đảo Malta, sốt Bang, sốt kiểu làn sóng Địa Trung Hải, sốt ra mồ hôi-đau.
Định nghĩa
Là bệnh ở động vật được truyền ngẫu nhiên sang người, tác nhân gây bệnh là nhiều loài brucella khác nhau; bệnh có đặc điểm là có một pha (thời kỳ) cấp tính thể hiện bởi sốt gián cách không đều, và trong những đợt sốt nối tiếp nhau bệnh nhân bị suy nhược, ra mồ hôi nhiều, những đợt sốt nối tiếp này bị ngắt quãng bởi những thời kỳ lui bệnh trong vài tuần.
Căn nguyên
Mầm gây bệnh là những vi khuẩn thuộc loài Brucella. Những loài gây bệnh ở người đều có hình thái như nhau, nhưng chúng gây bệnh cho các loài động vật khác nhau. Trực khuẩn Brucella hình que (dài 1 pm), thường ký sinh nội tế bào (bên trong tế bào), nằm riêng rẽ từng cá thê hoặc thành từng đôi, không di động, Gram âm, ái khí tuyệt đối. Trực khuẩn này bị huỷ diệt ở nhiệt độ cao và có thể tồn tại từ 4-10 tuần trong nước canh thịt (thịt dê) trong phân bón và trong nước. Người ta phân biệt các loài sau:
Brucella melitensis (typ sinh học 1-3): gây bệnh cho dê và cừu, lây truyền sang người thông qua các sản phẩm của sữa. Gây ra sốt đảo Malta hoặc bệnh nhiễm melitococcus; bệnh này phát thành dịch địa phương ở vùng bò biển Địa Trung Hải.
Brucella abortus (typ sinh học 1- 4): gây bệnh ở bò (bò cái, ngựa cái); trực khuẩn gây ra dịch xảy thai ở những động vật này. Có thể lây truyền sang người và gây ra sốt Bang, là một dịch địa phương ở châu Âu.
Brucella suis (typ sinh học 1-4): gây bệnh ở lợn và loài gặm nhấm, có thể lây truyền sang người và gây ra sốt kiểu làn sóng, hay gặp ở châu Mỹ.
Những loài khác hiếm khi lây truyền sang người: gồm có Brucella canis, gây bệnh ở chó; B. rangiferi gây bệnh ở loài tuần lộc (hươu) ở Alaska và ở Sibêri.
Nguồn dự trữ brucella trong tự nhiên là động vật, trực khuẩn thường cư trú trong tuyến vú và trong tử cung đang mang thai của những động vật này. Người mắc bệnh brucella là do uống sữa không đun sôi hoặc ăn thực phẩm bị nhiễm trực khuẩn, hoặc do tiếp xúc trực tiếp nhân lúc da có vết xước với các động vật mang trực khuẩn, hoặc với chất chế tiết và bài tiết của chúng (sữa, nước tiểu). Trong trường hợp nhiễm trực khuẩn do tiếp xúc, thì có thể xuất hiện một vết săng nhiễm ở da. Bệnh Brucella mang tính nghề nghiệp ở các bác sỹ thú y, người chăn nuôi gia súc, người vắt sữa và người bán thịt. Lầy nhiễm trong phòng thí nghiệm cũng có thể xảy ra.
Dịch tễ học: bệnh Brucella có thể gặp ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở vùng bò biển Địa Trung Hải (ở nước Pháp, hàng năm có khoảng 100 trường hợp được khai báo, trong đó 30% là do nhiễm trực khuẩn từ thực phẩm, và 70% là do tiếp xúc nghề nghiệp), ở châu Âu, Trung – Á , Mêhicô, và Nam Mỹ. Nam giới mắc bệnh với tần suất nhiều hơn gấp 6 lần so với nữ giới. Bệnh hiếm thấy ở trẻ em và nếu có thì cũng không điển hình. Bệnh Brucella xảy ra nhiều hơn vào giữa tháng 10 và tháng 5 hàng năm (là mùa cừu đẻ). Bệnh nhân đã khỏi có thể mắc bệnh lại.
Giải phẫu bệnh: khi mầm bệnh xâm nhập vào trong cơ thể, mới đầu chúng tối các hạch bạch huyết. Nhiễm trực khuẩn có thể kết thúc ở đây, hoặc diễn biến mang tính chất của vãng khuẩn huyết với sự hình thành những ở nhiễm khuẩn thứ phát ở lách, gan, tuỷ xương. Tổn thương mang đặc tính của một u hạt giống với tổn thương lao, nhưng không bã đậu hoá.
Triệu chứng
THỜI KỲ ủ BỆNH: từ 5 đến 21 ngày.
SỞ NHIỄM Ở HẠCH BẠCH HUYẾT: thời gian đầu bệnh thường âm ỉ, với những tiền triệu không rõ rệt kèm theo tăng thân nhiệt về buổi chiều. Đôi khi sốt kiểu làn sóng, với những đợt sóng thân nhiệt tăng cao tới 39- 40°c tiếp nối nhau trong 10 đến 20 ngày, giữa các đợt đó sốt dịu đi, nhưng không thật sự hết sốt. Bệnh nhân thường bị đau, ra mồ hôi nhiều, nhất là về ban đêm (do đó có tên gọi “sốt ra mồ hôi-đau”). Tình trạng toàn thân vẫn duy trì tốt, nhưng mệt nhiều. Thường thấy gan to và/hoặc lách to vừa phải. Một nửa số bệnh nhân bệnh Brucella bị sưng nhiều hạch bạch huyết. Trong trường hợp không được điều trị, thì bệnh nhân có thể bị sốt lại từ 3 đến 6 cơn, cơn nọ tiếp sau cơn kia. Cũng có những thể nhẹ, bệnh nhân vẫn đi lại bình thường.
THỜI KỲ TRỰC KHUẨN LAN TRÀN GÂY NHIỄM KHUẨN HUYẾT: với sốt cao kiểu cao nguyên, rét run, bệnh nhân rơi vào trạng thái li bì và mê sảng.
THỜI KỲ THỨ BA VỚI KHU TRÚ NỘI TẠNG:
Khu trú thần kinh: ngoài trạng thái loạn trương lực thần kinh thực vật và giảm thính lực vì bệnh tác động tới dây thần kinh sọ số VIII, có thể thấy xuất hiện viêm màng não tương tự như lao màng não. Hiếm thấy những thể viêm não hoặc viêm dây thần kinh.
Xét nghiệm dịch não tuỷ thấy có phản ứng màng não với nồng độ albumin và những yếu tố tế bào tăng nhiều.
Khu trú xương khớp: với biểu hiện từ đau khốp đơn thuần đến viêm xương khốp khu trú. Có thề gặp những trường hợp bệnh tác động đến một khớp hoặc đa khớp và tối cột sống (gây ra viêm đốt sống đĩa đệm, viêm khốp cùng chậu, bệnh Pott do melitococcus).
Khu trú ở các tuyến: có thể viêm tinh hoàn làm bệnh nhân rất đau nhưng khỏi hoàn toàn hoặc viêm tuyến vú, nhưng hiếm gặp.
Khu trú ở cơ quan hô hấp: gây ra viêm phế quản, viêm màng phổi kiểu như lao.
Khu trú tim mạch: gây ra viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bán cấp.
Khu trú ở gan: gây ra viêm gan ít nhiều rõ rệt, đôi khi có vàng da, ban xuất huyết, xuất huyết, cổ chướng (báng nước).
Khu trú ở lách: gây ra apxe lách.
NHỮNG THỂ MẠN TÍNH: với các triệu chứng: chán ăn, táo bón, mất ngủ, bất lực, trầm cảm tâm thần. Có những thể mạn tính kéo dài hàng năm mà không biểu hiện triệu chứng đặc biệt nào.
ở phụ nữ đang mang thai, bệnh Brucella không gây xảy thai nhiều hơn, so với những nhiễm khuẩn khác.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Huyết đồ: giảm bạch cầu thường thấy trong giai đoạn cấp tính, nhưng tăng tương đối tế bào lympho và bạch cầu đơn nhân. Thiếu máu ít nhiều rõ rệt.
Xét nghiệm tìm Brucella: xét nghiệm bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp với huyết thanh đặc hiệu những bệnh phẩm như: máu, dịch chọc hút từ các hạch bạch huyết, dich não tuỷ, dịch khớp. Đây là phương pháp chẩn đoán nhanh.
Cấy máu và cấy tuỷ xương: hay có kết quả dương tính nhưng •không phải lúc nào cũng dương tính trong thời kỳ vãng khuẩn huyết ở giai đoạn đầu tiên của bệnh, hoặc trong các đợt sốt lại. Cấy vi khuẩn thường mọc chậm (sau 12-60 ngày). Có thể cấy các bệnh phẩm như dịch chọc hút từ hạch bạch huyết, dịch não tuỷ, và nước tiểu.
Các test huyết thanh: (không cho phép phân biệt được giữa các loài gây bệnh khác nhau).
+ Chẩn đoán huyết thanh của Wright: Kể từ ngày thứ 10 sau khi bệnh khởi phát, thì hiệu giá ngưng kết cao hơn 1/80 là có ý nghĩa. Nếu trong vòng 1-4 tuần mà hiệu giá tăng lên gấp 4 lần, thì đó là dấu hiệu nhiễm khuẩn cấp tính. Hiệu giá ngưng kết cao có thể còn duy trì một thồi gian dài sau khi đã khỏi bệnh. Phản ứng có thể âm tính trong những trường hợp nhiễm khuẩn khu trú. Kết quả dương tính giả với hiệu giá tương đối thấp đã thấy trong những trường hợp bệnh tularemia và nhiễm trực khuẩn Yersinia enterocolitica.
+ “Test Card” (Card test): là test định tính, thực hiện trên phiến kính dùng để điều tra phát hiện.
+ “Test kìm hãm” (Blocking test): là test tìm những kháng thể kìm hãm (không gây ngưng kết), kết quả có thể dương tính trong những trường hợp bệnh Brucella mạn tính.
+ Phản ứng lệch hướng bổ thể (dương tính kể từ ngày thứ 20-25).
+ Các phản ứng huyết thanh khác: gồm có: test miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, test ngưng kết hồng cầu thụ động (có ích trong những thể mạn tính), định lượng phóng xạ miễn dịch ELISA.
Phản ứng nội bì với melitin: dương tính kể từ tuần lễ thứ 3. Phản ứng không có giá trị chẩn đoán, nhưng nếu kết quả âm tính thì có thể loại trừ được trường hợp bệnh brucella cũ, mạn tính hoặc đã khỏi.
Chẩn đoán dựa vào:
Hoàn cảnh lây nhiễm qua thực phẩm (sử dụng sữa, phó-mát tươi), hoặc lây nhiễm nghề nghiệp (làm nghề thú y, lao động trang trại).
Bệnh khởi phát âm ỉ với cảm giác khó ở, nhức đầu, đôi khi đau khớp.
Sốt kiểu làn sóng ít nhiều rõ rệt, ra mồ hôi nhiều.
Sưng hạch bạch huyết, lách to. Tăng tế bào lympho trong máu.
Chẩn đoán xác định nhờ cấy máu dương tính và hiệu giá ngưng kết tăng.
Chẩn đoán phản biệt (xác định bởi
các xét nghiệm cận lâm sàng) với:
Sốt thương hàn: bệnh nhân bị mệt lử (thiểu lực) nhiều hơn, ban màu hồng.
Bệnh cúm: khởi phát đột ngột, hội chứng phổi rõ rệt, diễn biến nhanh hơn.
Lao phổi: phát hiện trực khuẩn lao trong dòm, chụp X quang phổi thấy tổn thương lao đặc hiệu.
Bệnh sốt rét: xét nghiệm thấy ký sinh trùng trong máu và đáp ứng với thuốc đặc trị.
Các loại sốt nhiễm khuẩn khác: bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, bệnh Hodgkin thể bụng, bệnh viêm nội tâm mạc bán cấp, bệnh thấp khớp cấp.
Tiên lượng: tỷ lệ tử vong không vượt quá 2%. với những thể cấp tính, được điều trị và không có biến chứng, thì bệnh nhân khỏi bệnh sau
3 tuần, trong khi diễn biến tự nhiên (không được điều trị) kéo dài từ 3-6 tháng hoặc lâu hơn nữa. Có khoảng 5% số bệnh nhân bị tái phát sau khi được điều trị khỏi bệnh. Có những thể mạn tính diễn biến trong nhiều năm. Đối với người già, bệnh nguy hiểm là do biến chứng.
Điều trị
ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN: nghỉ tại giường trong thời kỳ có sốt và sốt nhẹ, chỉ cho corticoid trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm độc-nhiễm khuẩn nặng.
ĐIỀU TRỊ ĐẶC HIỆU: rifampicin (900 mg uống vào buổi sáng) cộng thêm doxycyclin (200 mg uống vào buổi chiều), liệu trình kéo dài ít nhất 6 tuần (nếu là thể khu trú trong nội tạng thì liệu trình là 6 tháng). Có thể thay thế rifampicin bằng Streptomycin (1 g mỗi ngày, tiêm bắp). Cũng có thể dùng Sulfamethoxazol + trimethoprim, nhưng những thuốc này chỉ có hiệu quả nếu điều trị sớm.
Đối với những thể mạn tính có phản ứng dị ứng, người ta đề xuất thực hiện biện pháp giải mẫn cảm bằng cho tiêm melitin với những liều tăng dần.
Phòng bệnh: bệnh do Brucella bắt buộc phải khai báo y tế. Vì sữa bò và nhất là sữa dê là nguồn lây nhiễm chính, nên biện pháp phòng bệnh chủ yếu là diệt khuẩn sữa bằng phương pháp Pasteur, và tiêm chủng vaccin cho động vật dễ bị lầy nhiễm. Khi tiêm loại vaccin dành cho người (PI Merieux) cho những công nhân viên làm nghề có nguy cơ lây nhiễm thường hay gây phản ứng (do đó tuốc khi tiêm chủng vaccin phải làm test bì).