Căn nguyên
Haemophilus influenzae, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh), Pseudomonas pseudomallei, các loài Proteus, Bacteroídes, Escherichia coli (trực khuẩn coli).
Triệu chứng
Những trường hợp viêm phổi này hầu như chỉ xẩy ra ở trong bệnh viện (viêm phổi nội trú), ở nnữr.PT đối tượng thể trạng yếu, bị suy giảm miễn dịch, phải thông khí hỗ trợ dài hạn, bệnh nhân sau phẫu thuật, bệnh nhân đái tháo đường, bệnh nhân tim, người nghiện rượu. Trực khuẩn sinh mủ xanh thường là tác nhân gây bệnh ở những đối tượng bị bệnh nhày nhớt. Những trường hợp viêm phổi này cũng thường rất nặng và kèm theo tình trạng nhiễm độc-nhiễm khuẩn nặng. Viêm phổi có thể nằm ở thuỳ trên hoặc thuỳ dưới.
Thường hay có biến chứng (áp xe phổi, tích mủ trong khoang màng phổi). Chẩn đoán dựa trên xét nghiệm vi khuẩn ở trong đờm và cấy máu, các xét nghiệm này thường cho kết quả dương tính. Thường hay thấy giảm bạch cầu trong máu.
Viêm phổi do Haemophilus influenzae (còn gọi là trực khuẩn Pfeiffer) hay xẩy ra nhất là ở trẻ em quanh một năm tuổi, thường có viêm mũi xẩy ra trước đó, và hay kèm theo nhiễm khuẩn-huyết. Những chủng vi khuẩn có vỏ bọc polysaccharid thuộc typ B hoặc “Hib” là những chủng đặc biệt độc hại.
Viêm phổi do Klebsiella pneumonừie (còn gọi là trực khuẩn Friedlaender) có đặc điểm là bệnh nhân khạc đờm rất đặc, màu hồng. Đặc phổi thường khu trú ở thuỳ trên, rất đậm và hình thành một đường cong lõm ở phần bên dưới.
Viêm phổi do những loài Bacteroides hay xẩy ra sau những phẫu thuật ở bụng hoặc ở khung chậu nhỏ (tiểu khung). Nói chung những trường hợp viêm phổi này đều nặng.
Pseudomonas pseudomallei (tác nhân của bệnh nhiễm khuẩn malleomyces, thấy ở vùng á nhiệt đói và nhiệt đối) thường gây ra các thể viêm phổi đi từ thể tiềm tàng tới những thể bán cấp tính và mạn tính.
Tuy nhiên cũng có những thể tiến triển cực kỳ nhanh.
Tiên lượng
Dè dặt (tỷ lệ tử vong: 30-40%).
Điều trị
Sử dụng thuốc kháng sinh tuỳ theo kết quả xét nghiệm vi khuẩn ở các bệnh phẩm: đờm, dịch phế quản hút ra trong lúc soi phế quản, và kháng sinh đồ. Thuốc kháng sinh phải cho với liều cao, đôi khi theo đường tiêm, trong nhiều tuần.
Trong bệnh viêm phổi do Klebsiella pneumoniae, người ta khuyên dùng ceftriaxon (2 g, cứ 12 giờ tiêm một lần theo đường tĩnh mạch) cộng với gentamycin (lmg/kg, mỗi giờ một lần).
Trong bệnh viêm phổi do Haemophilus influenzae thì thường dùng một trong những thuốc kháng sinh sau đây: ampicillin, erythromycin, phối hợp với amoxicillin + acid clavulanic hoặc cefaclor.
Phòng bệnh: (xem: vaccin kháng Haemophilus B).