Ritonavir (Norvir™) là thuốc PI đầu tiên có hiệu quả trên các kết cục lâm sàng (Cameron 1998). Tuy nhiên, hiện không còn dùng ritonavir như một PI đơn độc bởi lẽ sự dung nạp thuốc quá kém. Các khó chịu về dạ dày-ruột và loạn cảm quanh miệng gây cho bệnh nhân rất khó chịu, ritonavir bây giờ chỉ dùng để tăng cường cho các PI khác. Liều sử dụng cho mục đích này (100 mg bid) được dung nạp tốt hơn.
Ritonavir ức chế chuyển hóa chính nó thông qua con đường cytochrome P450. Hiệu lực của việc cảm ứng enzyme dẫn đến nguy cơ tương tác thuốc rất cao; bởi vậy nhiều thuốc bị chống chỉ định khi đang dùng ritonavir. Các rối loạn chuyển hóa xảy ra nhiều hơn so với các PI khác. Các cảnh báo cần được thực thi trong trường hợp có giảm chức năng gan. Một điều quan trọng cũng cần phải thông báo cho bệnh nhân là viên nang ritonavir phải để nhiệt độ mát, đây sẽ là vấn đề khi bệnh nhân đi xa.
Saquinavir (trước đây là Invirase™, Fortovase™, nay là Invirase 500™) là thuốc PI đầu tiên được cấp phép cho điều trị HIV từ tháng 12 năm 1995 và đến bây giờ vẫn là một trong số ít các thuốc có hiệu lực được chứng minh dựa trên cơ sở kết cục lâm sàng (Stellbrink 2000). Tăng cường bằng ritonavir làm tăng nồng độ thuốc trong huyết tương lên đáng kể (xem Plosker 2003). Điều tương tự cũng áp dụng với việc dùng thuốc cùng với thức ăn. Saquinavir là thuốc dung nạp tốt – nó rất hiếm khi có tác dụng phụ nghiêm trọng. Bởi không gây vấn đề gì nếu điều trị một liệu trình ngắn nên saquinavir là một thuốc PI hấp dẫn đối với các bệnh nhân cần một công thức PI tăng cường. Các dạng thuốc viên nang gel cứng (Invirase™) và gel mềm (Fortovase™) đã được thay thế bằng viên nén Invirase 500™ từ 2005, với đặc điểm dược động học tương tự (Bittner 2005) đã làm giảm số thuốc phải uống xuống còn 6 viên mỗi ngày (2 x 2 viên 500 mg cộng thêm 2 x 1 viên ritonavir 100 mg).
Quả thực là rất nhiều dữ liệu từ thời dùng viên nang Fortovase™ không thể dễ dàng áp dụng sang cho dạng viên nén mới, nhưng vẫn cần đề cập ngắn gọn đến chúng tại đây. Trong nghiên cứu CHEESE, không có sự khác biệt giữa saquinavir viên nang mềm và indinavir (Cohen-Stuart 1999). Trong nghiên cứu MaxCmin1 thấy saquinavir viên nang mềm (SGC) cũng tốt ngang với indinavir khi được tăng cường bằng ritonavir, cả hai thuốc đều chứng tỏ được hiệu lực tương đương trong khi saquinavir dung nạp tốt hơn (Dragstedt 2003). Trong thử nghiệm MaxCmin2 dạng saquinavir tăng cường (SGC) kém hơn chút ít so với lopinavir/r (Dragstedt 2005). Trong thử nghiệm Staccato ở Thái Lan, 89 % số bệnh nhân đạt được tải lượng virus dưới 50 bản sao/ml sau 24 tuần điều trị công thức ngày uống một lần (1,600mg saquinavir/100 mg ritonavir) (Ananworanich 2005). Với viên nén mới Invirase 500™, saquinavir một lần nữa trở thành lựa chọn ưa thích bởi tính chất dung nạp tốt của nó. Kết quả sơ bộ của nghiên cứu ít nhất cũng không thấy có sự kém thế nào rõ rệt so với lopinavir/r (Slim 2006).