NHẬP MÔN DINH DƯỠNG HỌC

Từ thế kỷ XIX, dinh dưỡng học đã trở thành một bộ môn khoa học độc lập. Tuy nhiên, đến thế kỷ XX mới thực sự là “thế kỷ của dinh dưỡng học” với những thành tựu nổi bật trong việc phát hiện ra các hợp chất dinh dưỡng, vitamin, acid amin. Đồng thời, khoa học dinh dưỡng với những hiểu biết mới đã soi sáng ngày một đầy đủ và toàn diện vai trò của dinh dưỡng đối với sức khoẻ. Trong vòng 50 năm trở lại đây, các … Xem tiếp

Cung cấp năng lượng trong dinh dưỡng học

Giá trị năng lượng của những thức ăn được biểu thị bằng Joule (viết tắt: J), theo Hệ thống Quốc tế (SI). Joule là đơn vị đo lường năng lượng, công, và/hoặc nhiệt lượng. Một joule tương đương với một công cần thiết để nâng một trọng lượng một kilogam lên cao 10 centimet. Trong tiết chế (khoa học về dinh dưỡng), người ta đã có thói quen đo các giá trị năng lượng của thực phẩm bằng calori (gọi ngắn gọn là calo). Trong đa số những công trình … Xem tiếp

VAI TRÒ VÀ NHU CẦU CHẤT KHOÁNG

Chất khoáng là một trong sáu loại chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sống. Điều quan trọng để phân biệt giữa chất khoáng và một chất hoá học của cuộc sống là chất khoáng không chứa nguyên tử các bon trong cấu trúc của nó. Tuy nhiên, nó thường kết hợp với các bon chứa trong các chất hữu cơ khi thực hiện các chức năng trong cơ thể. Chất khoáng được chia theo mức tồn tại trong cơ thể và tỷ lệ % so với trọng lượng cơ … Xem tiếp

Cung cấp Protid cho cơ thể trong dinh dưỡng học

Protid được sử dụng để tạo ra các mô tế bào sống, và được định lượng liên quan với glucid và lipid bằng hàm lượng nitơ chứa trong protid: có khoảng một gam nitơ trong 6,25 g protein. Đơn vị cơ bản của protid là các acid amin, trong số này có 9 acid amin được gọi là acid amin thiết yếu cho quá trình tổng hợp những mô tế bào sống, tổng hợp các enzym, hormon và kháng thể. Những acid amin thiết yếu là: histidín (nhất là trong … Xem tiếp

VAI TRÒ VÀ NHU CẦU NƯỚC

Nước là một trong những thành phần cơ bản của sự sống, nó chiếm khoảng 1/2 trong lượng cơ thể người trưởng thành. Con người chỉ có thể sống sót trong vòng vài ngày nếu không được bổ sung nước. Thời gian sống lâu nhất khi không có nước là 17 ngày, nhưng 2 hoặc 3 ngày là một giới hạn phổ biến nhất. Ngược lại, con người có thể sống trong nhiều tuần hoặc thậm chí hàng năm khi không bổ sung một số chất dinh dưỡng cơ bản … Xem tiếp

Cung cấp Glucid cho cơ thể trong dinh dưỡng học

Glucid hoặc hydrat carbon là những chất có vị ngọt, với công thức cơ bản là CH20. Người ta phân biệt: Những đường đơn: bao gồm: glucose, fructose, (hoặc vevulose), galactose, và mannose Những đường kép (đường đôi): saccharose (glucose + fructose), lactose (glucose + galactose), maltose (glucose + glucose). Các polysaccharid (đường da phân tử): gồm có: tinh bột, cellulose, và glycogen. Vai trò của glucid Glucid giữ vai trò chuyển hoá là chính vì chúng mang lại cho các tế bào nguồn năng lượng có thể sử dụng nhanh … Xem tiếp

DINH DƯỠNG CHO PHỤ NỮ CÓ THAI VÀ NUÔI CON BÚ

ĐẶC ĐIỂM VÀ NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA PHỤ NỮ CÓ THAI VÀ NUÔI CON BÚ Thai nghén là một trạng thái sinh lý bình thường nhưng dễ mất ổn định do có nhiều thay đổi trong cơ thể người mẹ. Nhìn chung, khi mang thai và nuôi con bú nhu cầu dinh dưỡng của người mẹ tăng cao hơn bình thường. Khi mang thai, người mẹ cần được cung cấp đầy đủ năng lượng cũng như các chất dinh dưỡng cần thiết cho phát triển bào thai và có nguồn … Xem tiếp

Cung cấp Lipid cho cơ thể trong dinh dưỡng học

Lipid là những chất không thuần nhất, không hoà tan trong nước, nhưng hoà tan trong những dung môi hữu cơ (cồn, chloroform) Lipid được hấp thụ dưới dạng dầu ăn (nhiệt độ nóng chảy quanh 10°C), bơ (nhiệt độ nóng chảy quanh 30°C), mỡ ăn (nhiệt độ nóng chảy quanh 40°C), margarin (chất mỡ không phải bơ, nhưng có hình thức giống với bơ). Ngoài những lipid kể trên, còn được gọi là lipid gia vị vì được sử . dụng để làm tăng thêm vị ngon của món … Xem tiếp