Chụp X quang sọ

BIẾN ĐỔI THÀNH XƯƠNG SỌ

  • Xương dày lên gần chỗ u màng não hay xương trán dày lên ở phía trong (hội chứng Morgagni-Morel).
  • Xương sọ mỏng, có hình ảnh vết ngón tay. Bình thường gặp ở trẻ dưới 10 tuổi.
  • Các mạch tân tạo nổi rõ và giãn bên cạnh khối u màng não hay u mạch máu.
  • Ống tai trong giãn trong bệnh u thần kinh thị giác (phải chụp tư thế nghiêng đặc biệt).
  • Các đường nói bị tách: dấu hiệu có tăng áp lực nội sọ. Dấu hiệu này ít có giá trị thực tiễn vì có muộn.

BIẾN ĐỔI HỐ YÊN

  • Mất calci và mòn các mỏm góc yên sau: dấu hiệu có tăng áp lực nội sọ.
  • Hố yên rộng, biến dạng, mòn: có khối u tuyến yên hay u trên hố yên.

VẾT CALCI HOÁ

  • Vôi hoá đầu xương: đầu xương đôi khi bị vôi hoá và đầu xương bị di lệch là triệu chứng quan trọng của u não.
  • Vôi hoá liềm não, dây chằng đá-bướm (nằm ở phía sau hố yên), ít khi ở đám rối mạch.
  • Vôi hoá ở chính khối u: u màng não, một số u tế bào thần kinh đệm có ít nhánh, u so hầu trên yên ở trẻ nhỏ.
  • Vôi hoá các mạch máu não trong xơ hoá động mạch, vôi hoá chỗ động mạch cảnh chia đôi hay phình các động mạch não.
  • Bệnh Sturge-Weber: vỏ não bị teo có vôi hoá, nhất là ở vùng chẩm.
  • Bệnh do

CHẤN THƯƠNG SỌ: vỡ sọ, tụ máu dưới màng cứng.

Chụp X quang cột sống

Các vùng cổ và thắt lưng-cùng là rất có ý nghĩa. Thường chụp thẳng và chụp nghiêng. Các tư thế nghiêng được dùng để làm rõ các lỗ liên hợp đôi khi bị các gai xương bịt kín (nhất là ở cột sống). Tìm gù, ưỡn, vẹo cột sống, chỗ thắng bất thường của cột sống, kẹp khe đốt sống, vôi hoá các đĩa liên đốt sống, gai xương mới hình thành, cùng hoá hay trượt đốt sống ra trước.

X quang cột sống cũng cho phép phát hiện viêm đốt sống, ung thư nguyên phát hay di căn, gãy đốt sống, bệnh Betcherevv hoặc bệnh Scheuerman và nhiều dị dạng bẩm sinh khác (gai đôi, hội chứng Klippel-Feil, gắn một bên đốt sống).

Chụp não bơm hơi

Chụp X quang sau khi thaỵ dịch não tủy bằng một lượng khí đúng bằng lượng dịch não tủy đã lấy đi bang chọc dò tủy sống hay chọc dò dưới chẩm. Hiện nay, phương pháp này được thay thế bằng chụp cắt lớp.

Chụp não thất

Chụp X quang sau khi tiêm hơi hay chất cản quang trực tiếp vào các não thất. Phương pháp chụp não thất hiện được thay bằng phương pháp chụp cắt lớp.

Chụp động mạch não (chụp động mạch cảnh)

Chụp X quang sau khi bơm chất cản quang vào quai động mạch chủ nhằm làm rõ hệ thống mạch não. Cũng có thể quan sát hệ mạch não bằng cách tiêm chất cản quang vào tĩnh mạch nhờ phương pháp chụp mạch số hoá. Phương pháp này cho hình ảnh kém rõ hơn nhưng có thể được thực hiện ngoài bệnh viện.

Chỉ định:

  • Phát hiện hẹp động mạch cảnh hay mảng loét có thể được chỉ định phẫu thuật.
  • Hẹp hay tắc động mạch não, thiếu máu não tạm thời, hội chứng dưới đòn, tắc xoang tĩnh mạch.
  • Dị dạng mạch não: phình động mạch, u mạch.
  • Tụ máu dưới màng cứng hay ngoài màng cứng: nếu hình ảnh chụp cắt lớp và cộng hưởng từ hạt nhân không cho thấy rõ.
  • Khối u trong sọ: ít có ý nghĩa. Chụp động mạch đôi khi cho phép nghi ngờ bản chất của khối u qua việc phân tích hình thái của các mạch máu ở pha động mạch và pha tĩnh mạch.

Chụp cản quang tủy sống

Qua chọc dò tủy sống, tiêm một chất cản quang tan trong nước vào rồi chụp X quang có thể thấy khoang dưới nhện và các rễ dây thần kinh thắt lưng- cùng. Bình thường chất cản quang này lấp đầy ống một cách dễ dàng, nhất là nếu bệnh nhân nằm trên giường có thể bập bềnh được và điều chỉnh được độ dốc. Nếu có tắc ở khoang dưới nhện thì chất cản quang bị chặn lại ở chỗ tắc (tắc hoàn toàn) hay khó đi qua (tắc không hoàn toàn). Sau khi chụp X quang, hút chất cản quang ra dưới sự kiểm soát bằng X quang. Chụp tủy sống , cho phép nhìn thấy bờ của các khối bất thường trong tủy sống, ngoài tủy sống, trong màng cứng hay ngoài màng cứng (nhất là thoát vị đĩa đệm). Trong viêm màng nhện có thể thấy các túi tạo thành hình chuỗi hạt ngọc không thay đổi khi thay đổi tư thế bệnh nhân. Trong chụp tủy sống bơm hơi, người ta bơm hơi chứ không bơm chất cản quang. Phương pháp chụp cắt lớp và cộng hưởng từ hạt nhân ngày càng thu hẹp chỉ định chụp tủy sống.

Chụp nhấp nháy đồ não, chụp gamma não

Có nhiều phương pháp thăm dò não và não tủy bằng chất đồng vị phóng xạ:

  • Nhấp nháy đồ não (làm rõ các khối u hay tổn thương thiếu máu) và chụp nhấp nháy đồ mạch (thăm dò động tuần hoàn não) hiện đã bị thay thế bởi chụp cắt lớp và cộng hưởng từ hạt nhân.
  • Vận chuyển chất đồng vị phóng xạ (nhấp nháy đồ tủy sống và chụp đồng vị bể chứa): các chất đồng vị được tiêm vào khoang dưới nhện ở đoạn thắt lưng hoặc dưới chẩm để nghiên cứu sự tuần hoàn của dịch não tuỷ. Có thể phát hiện được rách xương-màng cứng ở nền sọ, nguyên nhân gây chảy nước ở tai, ở mũi, não úng thuỷ có thông, tắc bên trong tủy sống.
  • Chụp cắt lớp sự phát positron hay phát phôtôn: các kỹ thuật này dùng hệ thống quét của chụp cắt lớp kinh điển sau khi đã dùng chất đồng vị đặc hiệu, nhất là các chất hữu cơ được gắn đồng vị. Các phương pháp này cho phép cải thiện hình ảnh và đo được dòng máu cũng như chuyển hoá glucose và tiêu thụ oxy ở mô não, đặc biệt là trong động kinh, khối u não và tai biến mạch máu não.

GHI CHÚ: không dùng chất đồng vị phóng xạ cho phụ nữ có thai.

Vang não đồ

Chụp siêu âm sọ đã được sử dụng để nghiên cứu bệnh lý có lan toả dưới lều não vì khối u làm các cấu trúc ở giữa bị lệch khỏi đường giữa.

Xét nghiệm này đã được thay thế bởi chụp cắt lớp, trừ ở khoa sơ sinh và ở trẻ dưới 2 tuổi để chẩn đoán nhanh xuất huyết não và não úng thuỷ.

Chụp siêu âm doppler

Chụp siêu âm hay chụp siêu âm doppler (đo tốc độ) cho phép phân tích dòng máu trong động mạch cảnh gốc, động mạch cảnh ngoài và động mạch cảnh trong.

Cũng có thể biết được dòng máu trong các động mạch đốt sống nhưng kỹ thuật rất phức tạp. Xét nghiệm này cho biết các động mạch này có bị hẹp không. Nếu có hẹp ở động mạch cảnh trong, người ta có thể thấy dòng máu bị đảo ngược trong động mạch dưới ho mắt hay động mạch mũi trong.

Siêu âm doppler được bổ sung bằng siêu âm thông thường nhằm phát hiện hẹp và các mảng xơ vữa ở chỗ chạc động mạch cảnh.

Chụp cắt lớp (scanner)

Dùng một chùm tia X hẹp quay xung quanh cơ thể theo các mặt phẳng kế tiếp nhau và một máy tính tích hợp hàng nghìn thông số hấp phụ trên 180° ở mỗi mặt phẳng. Điều này cho phép tái tạo lại hình ảnh trên ống âm cực và ghi lại hình ảnh.

Chụp cắt lớp sọ cho phép thấy rõ hộp sọ, hốc mắt, nhãn cầu và các cấu trúc của nhãn cầu, chất não (có thể phân biệt được phần não chất trắng và chất xám), các khoảng trong và ngoài não chứa đầy dịch não tuỷ, các vết vôi hoá.

Chụp cắt lớp cho phép thấy hình ảnh X quang của tủy sống, thấy rõ các khối bên trong và bên ngoài tủy sống (nhất là thấy thoát vị đĩa đệm). Chụp cắt lớp sọ rất hữu ích trong chẩn đoán , mọi quá trình bệnh lý bên trong sọ, nhất là:

  • U não nguyên phát hay di căn, nhất là ở dưới lều não; khó nhìn thấy các khối u ở hố sau hơn. Áp xe não, nang, gôm giang mai, củ lao.
  • Teo não, não úng thuỷ, phù não.
  • Rôl loạn về mạch máu: nói chung, nhìn thấy xuất huyết trong não. Ngược lại, hiện tượng nhũn não (ngay cả bị nhũn rộng) đôi khi chỉ được nhìn thấy sau khi bị nghẽn mạch nhiều ngày hoặc nhiều tháng. Chảy máu dưới màng cứng có thể không bị phát hiện bằng chụp cắt lớp.

GHI CHÚ: bằng chụp cắt lớp không nhìn thấy hình ảnh viêm màng não, viêm não, xơ hóa rải rác.

Chụp cộng hưởng từ hạt nhân

Hình ảnh chụp được qua một hệ thống đo các sóng có tần số cao được tạo ra khi các nguyên tử trở về vị trí ban đầu sau khi đã được định hướng bởi một từ trường rất mạnh trong một thời gian rất ngắn. Cộng hưởng từ cho phép thăm dò não và toàn bộ trục não-tuỷ.

Cộng hưởng từ hạt nhân có nhiều ưu điểm hơn chụp cắt lớp kinh điển: không có bức xạ ion hoá; phát hiện các tổn thương não nhạy hơn; phân biệt chất trắng và chất xám rõ hơn; thấy được các tổn thương gây thoái hoá (xơ hoá rải rác, bệnh Alzheimer); thấy rõ hơn các tổn thương ở hố sau, ở vùng chéo thị giác, ở thân não. Tủy sống cũng được thấy rõ hơn (khối u, ứ nước trong tủy sống, rỗng hành não) nên không cần chụp tủy sống. Thoát vị đĩa đệm, các rễ dầy thần kinh tủy sống và mô mỡ bao quanh được nhìn thấy rõ. Các nhược điểm so với chụp cắt lớp là: đắt hơn 30-40 %, thời gian quét lâu, khó thấy hình ảnh vôi hoá, đôi khi khó phân biệt giữa phù khu trú với khối u, không thực hiện được nếu có kim loại (ví dụ, các kẹp kim loại).

5/51 rating
Bình luận đóng