Mục lục
- Chụp bụng không chuẩn bị
- Vận chuyển baryt
- Siêu âm
- Chụp cắt lớp (scanner)
- Chụp cộng hưởng từ
- Chụp túi mật qua đường uống
- Chụp đường mật qua gan
- Chụp đường mật qua tĩnh mạch cảnh
- Chụp mật – tuy. ngược dòng qua nội soi
- Chụp động mạch tạng và động mạch mạc treo tràng trên
- Chụp mạch số hoá ở ổ bụng
- Nhấp nháy đồ gan và mật
Chụp bụng không chuẩn bị
Có thể phát hiện gan to hoặc lách to, sỏi cản quang ở túi mật, vôi hoá trong gan. Có hơi trong đường mật là dấu hiệu của tắc ruột do mật.
Vận chuyển baryt
Chỉ định chụp baryt nếu nghi có tăng áp suất tĩnh mạch cửa nhằm thấy rõ giãn tĩnh mạch dạ dày – thực quản. Khung tá tràng có thể bị biến dạng trong u đầu tuy hoặc u bóng Vater. Đôi khi thuỳ trái gan lớn quá đẩy dạ dày ra trước và sang bên.
Siêu âm
Là xét nghiệm ưu tiên để chẩn đoán bệnh gan mật. Nhược điểm duy nhất của phương pháp này là cần phải có nhiều kinh nghiệm để phân tích kết quả vì có nhiều hình ảnh bất bình thường nhưng chẳng những không có ý nghĩa chẩn đoán nào mà lại còn dẫn đến những thăm dò tốn kém và nguy hiểm. Chỉ định siêu âm cho các trường hợp sau:
- Bệnh của túi mật: chẩn đoán sỏi túi mật, viêm túi mật mạn tính.
- Bệnh đường mật có tắc mật’.
+ Các đường mật giãn: chướng ngại ở ngoài gan. Siêu âm chỉ phát hiện khoảng 1/3 số trường hợp sỏi ống mật chủ. Các đường mật có thể giãn mặc dù không còn chướng ngại sau khi đã cắt túi mật.
+ Đường mật không giãn: rất có thể ứ mật trong gan, nếu như chướng ngại không phải là cấp tính.
- Bệnh ở gan:
+ u rắn lành tính và ác tính: u xơ, u mạch, u tế bào gan, u di căn.
+ u nước: nang nước, nang mật.
+ Gan dội âm mạnh: gan nhiễm mỡ.
+ Siêu âm doppler được dùng để nghiên cứu khả năng thấm của mạch máu gan, nhất là tĩnh mạch cửa và để xác định hướng máu chảy.
- Bệnh của tuỵ: chụp siêu âm cắt lớp có thể phát hiện u đầu tuy.
Chụp cắt lớp (scanner)
Để chẩn đoán gan nhiễm mỡ, gan nhiễm sắc tố sắt, xác định vị trí tắc mật và ung thư tuỵ thì chụp cắt lớp đáng tin hơn là chụp siêu âm. Để chẩn đoán sỏi ống mật chủ thì không bằng chụp siêu âm. Phương pháp này cũng có thể cho thông tin về cấp máu cho một số khối u sau khi tiêm chất cản quang có iod (chụp mạch cắt lớp).
Chụp cộng hưởng từ
Sử dụng một chất cản quang (Endorem) có chứa các phân tử sắt được các tế bào Kupffer bắt có thể phát hiện các ổ tổn thương ở gan, nhất là các u nhỏ dưới bao gan cũng như các di căn xâm nhập vào mạch máu.
Chụp túi mật qua đường uống
Dùng một chất cản quang có iod được ruột hấp thu, được gan thu nhận và đào thải qua mật để chụp túi mật. Chỉ định để chẩn đoán sỏi túi mật. Hiện đã bị thay thế bằng siêu âm. Chụp mật qua đường uống hiện chỉ được chỉ định để kiểm tra tính thấm của túi mật (túi mật có hoạt động) trước khi điều trị sỏi mật bằng nội khoa (chi tiết: xem các thuốc làm tan sỏi mật) hoặc tán sỏi ngoài cơ thể.
Chụp đường mật qua gan
Dùng chất cản quang có iod tiêm vào gan qua thành bụng dưới sự kiểm soát bằng siêu âm hay X quang.
- Chỉ định: chẩn đoán phân biệt ứ mật trong gan và ứ mật ngoài gan, tin nơi tắc trên đường mật khi chụp đường mật ngược dòng bị thất bại. Nếu các ống mật nhỏ bị giãn thì cản trở rất có thể là ngoài gan. Tuy nhiên giữa giãn và chướng ngại ở ngoài gan không chắc chắn: các ống mật nhỏ có thể bị giãn từ trước khi mắc bệnh. Xơ hay viêm đường mật làm các ống mật nhỏ khó giãn.
- Chống chỉ định: hội chứng xuất huyết.
- Tai biến: viêm phúc mạc do mật, chảy máu trong ổ bụng, viêm đường mật, tràn khí màng phổi. Tỷ lệ tử vong do xét nghiệm: 0,5%.
Chụp đường mật qua tĩnh mạch cảnh
Dưa ống thông vào tối tĩnh mạch trên gan để chụp các đường mật
Chụp mật – tuy. ngược dòng qua nội soi
Luồn một ống thông vào tá tràng cho tới khi thấy được bóng Vater. Tiêm một chất cản quang vào đường mật chính và vào các đường mật trong gan. Có thể đưa thuốc cản quang vào ống Wirsung trong trường hợp có bệnh tuyến tuỵ.
- Chỉ định chẩn đoán: xác định vị trí và bản chất chỗ tắc (sỏi, chít hẹp, ung thư) nếu nghi có ứ mật ngoài gan. Chẩn đoán viêm tuỵ mạn tính và u tuyến tuỵ.
- Chỉ định điều trị: cắt cơ thắt và lấy sỏi ở phần thấp ống mật chủ qua siêu âm, tạo đường mật.
- Biến chứng: viêm tuỵ cấp, viêm đường mật, viêm phổi do hút. Tỷ lệ tử vong của xét nghiệm này là 0,1 – 0,2 %.
Chụp động mạch tạng và động mạch mạc treo tràng trên
Tiêm chất cản quang vào thân tạng hay động mạch mạc treo tràng trên để thấy rõ các khối u ác tính ở gan.
Chụp mạch số hoá ở ổ bụng
Tiến bộ về chụp hình số hoá cho phép chụp mạch mà chỉ cần tiêm chất cản quang vào tĩnh mạch. Qua hình ảnh có thể thấy các kiểu cấp máu cho khối u ác tính ở gan cũng như một số u của mạch máu (ví dụ, u máu hang). Chụp mạch, số hoá ở thì tĩnh mạch cho thấy hệ mạch cửa và rất hữu ích trong chẩn đoán tăng áp suất tĩnh mạch cửa. Chụp tĩnh mạch cửa qua gan hay qua tĩnh mạch trên gan cũng cho thấy giải phẫu của hệ mạch cửa.
Nhấp nháy đồ gan và mật
Hiện nay, siêu âm, chụp cắt lớp và chụp đường mật qua gan hay chụp ngược dòng đã thay thế cho nhấp nháy đồ gan. Một vài trung tâm chuyên khoa chụp nhấp nháy đồ mật bằng iminodiacetic đánh dấu. Phương pháp này cho phép xác định vị trí tắc ở đường mật chính trong trường hợp không chụp được đường mật ngược dòng (mới mổ, dạ dày-ruột non chồng lên nhau nên không tới được bóng Vater).
Chụp nhấp nháy đồ các thụ quan của somatostatin cho thấy các u nguyên phát hoặc di căn và kích thước khối u nội tiết ở đường tiêu hoá và ở tuy.