Phương pháp châm mặt và mũi là châm vào một số huyệt nhất định trong phạm vi vùng mặt hoặc vùng mũi để điều trị nhiều chứng bệnh. Nó phát triển từ thời cổ trên cơ sở từ sự thay đổi sắc da ở mặt mà chẩn đoán ra bệnh tật. Phương pháp này trước mắt ngoài việc chữa bệnh còn dùng trong lĩnh vực châm tê củng thu được hiệu quả tốt.
Mục lục
MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH LẠC, TẠNG PHỦ, TOÀN THÂN VỚI VÙNG MẶT
Căn cứ vào thiên ngũ sắc, sách Linh Khu có ghi ‘‘Vùng mặt có thể phân thành các khu vực phản ứng phân biệt của chứng bệnh các vùng ngũ tạng, lục phủ, cơ khớp”.
Bởi vậy mới nói “Ngũ sắc có quan sát các bộ phận, quan sát độ nổi chim mà biết được độ nông sâu, quan sát chỗ tốt xấu của nó mà biết thành bại, quan sát độ tán mỏng của nó mà biết được gần xa, quan sát sắc trên dưới mà biết được nơi có bệnh”. Đây chính là sự thay đổi bệnh lý trong tạng phủ, cơ khớp phản ánh ra bên ngoài ở một điểm trọng yếu. Điều đó cũng như trong học thuyết kinh lạc có ghi : “Quan sát sự phản ứng bên ngoài mà biết được trong nội tạng”. Đầu mặt ở vào vị trí quan trọng của cơ thể. Trong thiên tà khí tạng phủ bệnh hình sách Linh Khu có ghi : “12 kinh mạch, 365 lạc, khí huyết của chúng đều lên mặt rồi mới đi đến các khiếu…, tông khí đi lên rồi làm khiếu”. Trong 12 kinh mạch trừ hai kinh túc thủ thái dương trực tiếp phân bố ở đầu mặt, còn có hai kinh thủ thiếu âm tâm đi đến cổ họng lên mắt , kinh túc quyết âm can đi vào vòm họng lên đến mắt, đi ra trán và gặp đốc mạch ở chỗ cao nhất của trán , lại từ mắt đi vào trong má vòng vào trong môi, cũng lại đi đến các vùng ở mặt 12 kinh biệt sau khi phân bố ở biểu lý, tạng phủ trong cơ thể chúng đều gặp nhau và đi ra vùng mặt. Trong bát mạch kỳ kinh thì đốc mạch đi xuống trán, đến sống mũi; nhâm mạch : đi ở mặt vào mắt; mạch xung ngoài việc hợp với nhâm mạch đi ở mặt vào mắt còn xâm nhập phần dương, xuyên qua tinh tăng cường mối quan hệ giữa đầu mặt và trong ngoài toàn thân. Thông qua sự vận chuyển khí huyết ở kinh lạc mà vùng mặt và tạng phủ, cơ khớp toàn thân làm thành một chỉnh thể. Bởi vậy sự thay đổi bệnh tật trong tạng phủ, cơ khớp cơ thể phản ánh ra ở một vùng nhất định trên mặt. Cho nên châm cứu ở những bộ phận này thì có tác dụng điều trị với một số cơ quan có liên quan. Mũi ở chính giữa mặt, người xưa gọi là minh đường , trong Song thương toàn thư ghi : “Mũi ở chính giữa mặt là nơi vận hành huyết của toàn thân”. Sách Tố Vấn ghi : “Ngủ khí nhập vào mũi tàng ở tâm phế”. Từ những lời ghi trên có thể lý giải : vùng mũi có liên quan mật thiết với hoạt động của khí huyết toàn thân và tim phổi, và lại tâm thần lại có quan hệ với não. Gần đây người ta dựa vào những tài liệu xưa và thông qua lâm sàng sử dụng châm mặt và châm mũi để điều trị bệnh toàn thân. Đây là một bước phát triển lớn.
CÁC HUYỆT VÙNG MẶT (diện châm)
Vài nét về diện châm
Thiên ngũ sắc sách Linh khu có ghi lại những vùng phản ứng ở mặt, nhưng quá cổ xưa nên phải qua chú giải mới hiểu được. Ví như nói về một số vùng phản ứng giữa trán và vùng mũi : nói chung ở trên mặt thì có các huyệt họng, phê, tứ chi, tâm, can, đởm, tỳ… huyệt vùng mặt thì tham khảo lời ghi này đồng thời thông qua thực tiễn lâm sàng mà tổng kết thành. Huyệt đơn châm ở trán, mũi và chính giữa môi trên và 18 cặp huyệt ở mũi, mắt, cạnh miệng, vùng gò má và vùng má. VỊ trí cụ thể thì xem bảng và hình dưới đây.
Bộ phận (1) | Tên huyệt (2) | Bộ vị (3) |
Giữa | Thủ diện | Giữa huyệt thủ diện và phế |
trán | Yết hầu | Chính giũa trán |
mũi, | Phế (ấn đường) | Giữa 2 đầu trong của lông mày |
và môi | Tâm (sơn căn) | Giữa 2 đầu trong mắt |
trên | Can | Chính giữa sông mũi, giũa điểm tâm và điểm tỳ |
Tỳ (tố liêu) | Đỉnh nhọn nhất ở mũi | |
Tử cung, bàng quang (nhân trung) | Trên rãnh nhân trung 1/3 về phía trên | |
Đỏm | Dưới sống mũi thẳng dưới khoé mắt trong. Hai bên là điểm can | |
Vùng | Vị | Chính giũa cánh mũi lên trên, 2 |
cạnh | bên là điểm tỳ dưới điểm đởm là | |
mủi, | nơi gặp nhau 2 đường | |
mắt | Ung nhũ (tình minh) | Cạnh khoé mắt trong, chỗ lõm |
miệng | ngoài sông mũi | |
Đùi trong (địa thương) | Cạnh miệng 5mm, nơi gặp nhau của 2 môi | |
Tiểu trưòng | Ngang vối huyệt can, đỏm, cạnh trong của xương quyền |
Đại trường (quyền liêu) | Vùng mặt quyển, phía dưới khoé mắt ngoài | |
Cánh tay | Phía trên đằng sau xương quyền, phía sau điểm vai | |
Tay | Phía dưới đằng sau xương quyển, bên dưới điểm cánh tay | |
Thận | Vùng má, ngang với cánh mũi | |
Rốn | Vùng má, dưới điểm thận chừng 7mm | |
Vùng | Lưng (thính cung) | Phía trước nhĩ bình |
má | Đùi | Phía trên chỗ gặp nhau của thùy tai và hàm dưới |
Đầu gối | Giữa chỗ gặp nhau của hai dái tai và hàm dưới | |
Bánh chè (giáp xa) | Chỗ hõm bên trên góc hàm dưới | |
Ống chân | Phía trước của góc hàm dưới, cạnh trên xương hàm dưới | |
Chân | Phía trước dirael ống chân, thẳng dưới khoé mắt ngoài |
Các huyệt ở mặt được xác định dựa theo các khu phản ứng trên mặt ghi trong thiên ngũ sẳc (Linh Khu) và theo quyển Châm tê (NXB Nhân dân Thượng Hải, 1972).
Được áp dụng vào châm tê thành công từ tháng 8/1966 đến nay, hầu như chỉ áp dụng để châm tê trong giải phẫu.
CÁC HUYỆT VÙNG MŨI (ty châm)
Vài nét về tỵ châm
Thiên ngủ sắc sách Linh Khu có ghi “Minh đường (mũi) cho cốt cao dĩ khởi bình dĩ trực, ngũ tạng thứ vu trung ương, lục phủ giáp kè lương trắc…”.
Mũi là chỗ xương nhô cao nhất, ngũ tạng là chỗ quẩn trọng thứ hai, lục phủ ngang hai bên huyệt châm ở mũi là căn cứ vào nguyên tắc phân các tuyến 1,2 và 3. VỊ trí cụ thể của nó và các huyệt ở mặt có chỗ giống, có chỗ khác nhau.
Châm ở mũi được hình thành dựa theo sự liên hệ giữa mũi và các cơ quan tạng phủ theo thiên ngũ sắc (Linh Khu) và Sang dương toàn thư .
Được giới thiệu trong quyển Châm tê (NXB Nhân dân Thượng Hải, 1972). Thường dùng trong châm tê giải phẫu kể từ tháng 3/1970 đến nay.
BẢNG THAM KHẢO HUYỆT CHÂM TÊ Ở MŨI
Vùng mổ | Loại hình phẫu thuật | Huyệt dùng | Kỹ thuật |
Mổ | Mổ tuyến giáp trạng | Phế, nhĩ, yết hầu | Thêm điện châm |
vùng cổ | Mổ các bệnh ở giáp trạng | ||
Mổ | Mổ tách đối giáp trạng | ||
vùng ngưc | Mổ tạo ống dẫn tâm bào | Phế, nhĩ, tâm | Huyệt nhĩ phối hợp với điện châm |
Mổ sửa ống động mạch | Thêm điện châm | ||
Mổ cắt phần lớn dạ | Phế, nhĩ, vị | Thêm 2 bên điện | |
dày | châm | ||
Mổ sửa lỗ hóng dạ dày | |||
Mổ | Mổ tỳ | Phế, nhĩ, vị, tỳ | Thêm điện châm |
vùng | Mổ chữa túi mật | Phế, nhĩ, vị, đởm | Thêm điện châm |
bụng | Mổ chữa xơ cứng ruột | Phế nhĩ | Thêm điện châm |
Mổ kết hạch ruột | Đại trường Tiểu trường | ||
Mổ khe bụng, đùi, mổ | Phế, nhĩ, tiền âm, | Thêm điên châm | |
phụ sản mổ tử cung, đường dẫn trứng | buồng trứng | ||
Mổ lấy sỏi bàng quang | Phế, nhĩ, tiền âm, | Thêm điện châm | |
và niệu đạo | bàng quang | ||
Mổ ống dẫn tinh | Phế, nhĩ, tinh hoàn | Thêm điện châm | |
Mổ xương đùi | Phế, nhĩ | Thêm điện châm | |
Mổ | Mổ rút đinh | Phế, nhĩ, chi gãy | Thêm điện châm |
tứ | Mổ tái tạo chân gãy | Phế, nhì, chi gãy | Thêm điện châm |
chi | Mổ cắt sưng da | Phế, nhĩ, đùi, đầu gối, cổ | Kết hợp nhĩ châm và điện châm |
Mổ cắt chỗ đau sưng | Phế, nhĩ, đỉnh lưng | Thêm điện châm | |
Các | vùng lưng | ||
vùng khác | Mổ thực quản, kiểm tra vùng bụng | Phế, nhĩ, ngực, tâm | Thêm điện châm |
Mổ cắt trĩ nội, | Phế, nhĩ, đại tràng, tiểu tràng | Thêm điện châm | |
Mổ đáy mắt | Phế nhĩ, lưng, chi trên | Thêm điện châm |
NGUYÊN TẮC CHỌN HUYỆT
Các huyệt ở mặt và mũi tuy khác nhau nhưng nguyên tắc chọn huyệt lại như nhau. Nay lấy các huyệt châm ở mặt làm ví dụ.
Căn cứ vào các cơ quan tạng phủ bị bệnh mà lấy huyệt tương ứng với nó, như bệnh ở tâm tạng thì lấy điểm tâm, bệnh ở vị trí từng vùng phẫu thuật mà lấy huyệt tương ứng. Ví dụ như phẩu thuật vùng bụng thì lấy huyệt rốn, mổ ruột thừa thì lấy điểm đại tràng
Căn cứ vào điểm phản ứng mà lấy huyệt: Phương pháp thăm dò điểm phản ứng phần lớn cán kim hoặc que dò huyệt ở tai tìm những khu vực tương ứng của vùng tạng phủ bị bệnh, gặp điểm đau thì chính là điểm phản ứng, cũng có thể dùng máy dò, điểm phản ứng sẽ có cảm giác đau như châm hoặc nóng. Những điểm phản ứng này thường có hiệu quả tương đối tốt.
Căn cứ vào học thuyết tạng tượng, các huyệt chọn có quan hệ sinh lý, bệnh lý với tạng khí bị bệnh thường có hiệu quả cao. Phương pháp chọn huyệt ở mặt rất quan trọng.
Ví dụ : Căn cứ vào kiến thức phế chủ bì mao, khi làm giảm đau mổ lớp da có thể phối hợp với điểm phế. Căn cứ vào nguyên lý thận chủ cốt khi phẫu thuật xương thì lấy điểm thận. Dựa vào lý luận tâm tàng thần lấy điểm tâm để tăng thêm tác dụng an thần, trấn tĩnh.
Nguyên tắc chọn huyệt ở mũi, trừ chỗ giống ở mặt khi châm tê mũi phần lớn lấy hai huyệt là nhĩ và phế sau đó mới căn cứ vào vùng phẫu thuật mà lấy thêm các huyệt khác.
BẢNG THAM KHẢO LẤY HUYỆT ĐỂ CHÂM TÊ Ở MẶT
|
PHƯƠNG PHÁP THAO TÁC
Chọn kim số 28-32, dài 0,5-1,5 thốn, sau khi sát trùng dùng cán kim ấn rồi tiến hành châm, xem xét vùng châm có lớp da dày mỏng ra sao để xác định độ yêu cầu châm. Phân biệt góc độ ngang, xiên, thắng, đứng rồi từ từ châm đến độ sâu nhất định. Phần lớn các huyệt vùng trán, mủi, miệng đều châm xiên hoặc châm ngang. Huyệt vùng má có thể châm thẳng, đồng thời phải xem yêu cầu của huyệt để có phương pháp châm nhất định.
Sau khi châm đắc khí lưu kim từ 10-30 phút, cứ cách 5-10 phút lại vê kim một lần, nếu cần có thể dùng mai hoa châm. Sau khi châm tê ở mặt và mũi, phần lớn dùng cách vê liên tục. Tại vùng trán, mũi và cạnh mắt cũng có thể thêm điện châm để tần số từ 180-200 1/phút, để 15 phút.
Khi điều trị phần lớn lấy 10 lần châm làm một liệu trình, cách ngày hoặc hàng ngày châm một lần, giữa hai liệu trình có thể nghỉ châm 7 ngày.
CHÚ Ý
Trước khi châm phải sát trùng, nếu có nhiễm trùng phải xử lý ngay tránh dẫn đến chảy máu hoặc đau nặng.
Nên dùng cán kim tìm điểm phản ứng, điểm này giống như tìm huyệt ở tai.
Nên lấy cán kim chà khô mũi để tránh ướt làm điện trở hạ thấp xuất hiện điểm phản ứng giả.
Do vùng mũi có lớp cơ mỏng nên dùng kim ngắn tránh châm không chính xác.
Vùng mũi có lớp da tương đối nhạy cảm, khi châm phải dùng cách thích hợp để giảm đau. Đồng thời tránh châm sâu và vê mạnh để bệnh nhân có thể chịu đựng được.
Khi điện çhâm nên chú ý điều chỉnh điện từ thấp đến cao và điều độ, tránh điện lúc mạnh lúc nhẹ, lúc có lúc không.