Tên khác: Chuối chát
Tên khoa học: Musa brachycarpa Back.
Họ: Chuối (Musaceae)
1. Mô tả, phân bố
Chuối hột là cây thảo lớn, có thân rễ thường gọi là củ chuối. Thân mọc thẳng chính là thân giả do các bẹ lá to mọc ốp vào nhau. Lá mọc tụ tập ở ngọn, dài 1m hay hơn, cuống mập hình máng, gân giữa lồi lên ở mặt dưới, gân phụ song song sít nhau. Cụm hoa mọc ra từ giữa thân giả chính là thân thật thành bông dài bao bọc bởi nhiều lá bắc màu đỏ thẫm, trong mỗi lá bắc có nhiều hoa xếp đều đặn thành hai hàng mà khi quả chín, lá bắc rụng đi, gọi là nải; bao hoa có đài tràng và nhị; bầu hạ.Quả mọng to, có 5 cạnh, có hạt màu đen.
Chuối hột phân bố chủ yếu Ở vùng nhiệt đới châu á, một số nước Đông Nam á, ấn Độ, Trung Quốc. Ở việt Nam, cây được trồng từ lâu đời Ở các tỉnh miền núi, trung du và đồng bằng. Cây dễ sống, có thể mọc được ở góc vườn, dưới bóng các cây ăn quả khác, thậm chí ngay cạnh các gốc tre.
2. Bộ phận dùng, thu hái
Tất cả các bộ phận của cây chuối hột từ thân rễ, thân, lá đến hoa, quả, hạt đều đợc dùng. Thân rễ, thân và lá thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô. Hoa và quả thu hái đúng vào mùa sinh sản của cây; dùng tươi hay phơi, sấy khô.
3. Thành phần hóa học
Thân rễ chứa nước, tinh bột, acid min, muối khoáng. Quả xanh chứa nhiều tinh bột và chất chát. Khi quả chín, tinh bột chuyển thành đường sucrose, glucose, fructose. Hạt chứa tanin.
4. Công dụng, cách dùng
Trong các loại chuối, chuối hột và chuối hột rừng có hương vị kém hơn cả nhưng lại được dùng làm thuốc phổ biến trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Chuối hột rừng được bán phổ biến ở các cửa hàng dược liệu và thực phẩm.
Củ chuối hột rửa sạch, cắt miếng rồi giã nát, vắt lấy nước uống chữa cảm nóng, sốt cao, háo khát, mê sảng. Củ chuối hột phối hợp với tầm gửi cây dâu, rễ cỏ tranh, thài lài tía (mỗi thứ 12g) thái nhỏ, sắc với 400 ml nước eòn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày, chữa ho ra máu; với củ sả, tầm gửi cây táo hoặc vỏ cây táo (mỗi thứ 4g), sao vàng, sắc uống chữa kiết lỵ ra máu.
Đồng bào vùng núi cao lại dùng củ chuối hột sắc uống với củ chuối rừng và rễ cây móc (mỗi thứ 10 – 20g) để làm thuốc an thai.
Thân cây chuối hột non cắt đoạn, nướng chín, rồi ép lấy nước, ngậm với ít muối chữa đau nhức răng.
Lá chuối hột phơi khô (10g), mốc cây cau (20g),tinh tre (20g). Tất cả đất tồn tính, tán nhỏ, sắc uống chữa băng huyết, nôn ra máu.
Hoa chuối hột thái nhỏ, luộc hoặc làm nộm ăn để tăng tiết sữa và chống táo bón ở phụ nữ mới đẻ.
Quả chuối hột còn non, thái mỏng, trộn với rau sống, ăn với nộm sứa, gỏi cá để giảm vị tanh và đề phòng tiêu chảy. Quả chuối hột xanh thái mỏng, sấy khô, sao vàng, hạ thổ trong vài ngày, mỗi lần dùng 50 – 100g sắc với nước cho đặc, uống làm 2 – 3 lần trong ngày vào lúc no, chữa sỏi bàng quang. Có thể dùng dạng nước hãm như pha trà mà uống hoặc tán dược liệu thành bột, rây mịn, uống mỗi ngày 30 – 50g chia làm hai lần.
Để chữa đái tháo đường, uống nước sắc quả chuối hột xanh (30g) hàng ngày, đồng thời, ăn hạt đậu chiều và rau khoai lang đỏ luộc.
Dùng ngoài, lấy quả chuối hột xanh vừa ngắt khỏi cây cắt đôi lấy nhựa bôi chữa hắc lào.
Quả chuối hột chín ăn không ngon, nhưng thấy ra giun. Vỏ quả chuối hột chín (40g) phơi khô, sao hơi vàng tán bột; quế chi (4g), cam thảo (2g) tán bột. Trộn đều hai bột, luyện với mật làm viên, uống 2 – 3 lần trong ngày với nước ấm chữa đau bụng kinh niên. Để chữa kiết lỵ, lấy vỏ quả chuối hột chín (20g), rễ gai tầm xoọng (20g), vỏ quả lựu (20g), rễ tầm xuân (20g), búp ổi (10g), phơi khô, sắc uống trong ngày.
Hạt quả chuối hột chín (200g) giã nát, ngâm với rượu 40 oC (1 lit) trong 10 ngày, thỉnh thoảng lắc đều (để càng lâu càng tốt). Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15 ml vào trước bữa ăn hay trớc khi đi ngủ (có thể thêm đường cho dễ uống). Thuốc có tác dụng giảm đau, tiêu sưng, chữa đau lưng, chân tay nhức mỏi, thấp khớp.
Bán chuối hột rừng tại :
0903206186